Nghe Cù Mai Công, “quê quán” Ông Tạ ca ngợi phở Ông Tạ, tôi bật cười. Đây, đọc thử ông Cù viết trong bài “Mùi phở Ông Tạ” thế này: “…Phở Ông Tạ vẫn còn đây: thanh mát, ngọt mềm, bánh phở vuông, sợi nhỏ…”.

Tôi có thời gian sống ở Ông Tạ, trên đường Thoại Ngọc Hầu, cách ngã ba Ông Tạ chừng vài trăm mét. Tôi có thể nói, phở ở đây thuộc loại bình dân, xoàng thôi. Hầu hết chỉ là các xe phở thôi, chứ tiệm phở thì chắc sau này, đâu đó cỡ thập niên 70 mới có.

Ở Ông Tạ có hai món này là “đặc sản” nè, mà ông Cù quên không nói tới. Đó là món bê thui chấm với tương bần, và hai là món thịt cầy, nhất là dựa mận, sền sệt màu nâu đen. Hai món này đúng là đặc sản hội hè của thôn làng miền Bắc. Nếu cần thì kể thêm món nem (thịt heo làm tái rất sơ, trộn với bì heo, ướp thính và tỏi. Làm sáng, trưa ăn).

Nhưng món lạ miệng nhất với tôi ở Ông Tạ là bún mọc. Trước đó tôi sống ở Tân Định, vùng đất đặc trưng cho những món ngon miền Nam với cơm tấm, bánh ướt, hủ tiếu mì,… Khi về Ông Tạ tôi biết món bún mọc. Vị thanh, mùi nhẹ, rất dễ chịu. Nhược điểm lớn nhất của bún mọc là không thể cho cơm vào nước lèo để ăn, vì nhạt nhẽo, chẳng ra làm sao. Tôi đang tuổi lớn, một tô bún mọc đâu nhằm nhò gì, đành phải gọi thêm rau muống trụng. Bà già tôi bắt được “tẩy” thằng con, cứ xúi tôi ăn bún mọc, vì ở nhà tôi ít ăn rau. Được chừng vài lần, tôi “bắt lại tẩy” má tôi, nên ăn bún mọc mà không chịu ăn rau nữa, chỉ được một lát là than đói. Thế là má tôi đành cho thằng con quay về với… phở. Dĩ nhiên chỉ thỉnh thoảng mới được ăn.

Xe phở mà tôi thường đến mua là của ông chú họ, bán ngay chỗ Nam Thái. Tôi thường xin thêm nước phở để về ăn với cơm nguội. Nước lèo (không có phở) cho thêm cơm vào ăn thì nhạt nhẽo. Nhưng nếu là nước lèo có phở, ăn gần hết phở, rồi cho thêm cơm vào thì ngon tuyệt vời. Bún bò Huế cơm nguội cũng tương tự như thế. Điều kỳ lạ này đến giờ tôi vẫn chưa giải thích được.

Vào cuối thập niên 80, từ đường Trương Minh Ký quẹo trái một chút ra Thoại Ngọc Hầu, bên phải có một xe phở ở đầu hẻm, theo tôi là ngon, nhất phở chín gầu. Thời buổi ăn độn, thiếu đạm thiếu béo thì tô phở mỡ màng như thế là cao lương mỹ vị. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ tô phở gầu ở con hẻm đó. Nhớ, có lẽ vì đó là “món ngon thời cuộc” chăng? Xe phở đó giờ đây không còn.

Nhớ món ngon tuổi thơ, huống chi lại sinh ra và lớn lên ở Ông Tạ thì ông Cù có cuồng si tất cả món ăn ở đó cũng là lẽ thường tình. Hoan hỉ cười xòa! Dù coi phở Ông Tạ là xoàng, nhưng hồi đó tôi cũng phải giở đủ chiêu trò với bà già mới có được. Nhưng trong ký ức tuổi thơ của tôi, phở Ông Tạ không thể sánh được với mì Tàu ở hẻm 140 (?) Hiền Vương. Ngay bây giờ, nếu ở Sài Gòn hơi lâu, tôi lại nhớ lẩu bò Ba Toa Đà Lạt. Món ăn quen thuộc dù thỉnh thoảng mới ăn, nhưng khi xa vùng đất đó lại nhớ món ăn ở đấy, huống chi món ăn tuổi thơ.

Cuồng si Ông Tạ cũng bị mắc nạn. Điểm gây tranh cãi là ông Cù mở rộng “biên cương Ông Tạ” đi quá xa. Có những góp ý mỉa mai, thậm chí cay nghiệt, hẹp hòi, vượt khỏi đường ranh phê bình hay góp ý. Riêng tôi, tôi xuề xòa cái vụ mở rộng biên cương tê tái này. Đơn giản, chỉ vì Ông Tạ không phải là địa danh hành chính, mà chỉ là địa danh dân dã. Liệu ngã ba Ông Tạ (Thoại Ngọc Hầu – Lê Văn Duyệt) có phải là trung tâm vùng Ông Tạ không? Ai biết khu Ông Tạ bao gồm tới đâu mà phê phán người ta!

Thú thật, tôi cũng không biết tên Ông Tạ do đâu mà có. Có người cho là đó là tên (hay họ?) của ông thầy lang hồi đầu thế kỷ XX. Nhà tôi ở gần kênh Nhiêu Lộc, má tôi không hợp thủy thổ, bị tê chân nên đi lại rất khó khăn. Nhà chỉ cách ngã ba Ông Tạ chừng 300 mét nhưng bà có đi ông lang Tạ hay truyền nhân của ông Tạ đâu. Má tôi đi ông lang chỗ khác, và cứ vài ngày tôi phải đạp xe ra khu Cầu Sạn lấy thuốc.

Có chơi có chịu. Muốn mở rộng “biên cương Ông Tạ” tới đâu thì tùy, nhưng mở tới đâu phải có “nghĩa vụ” tới đó, và phải tìm hiểu danh nhân, văn hóa, văn nghệ, hay những di tích, dấu vết năm xưa cũ vùng đó. Hình như ông Cù đang làm chuyện này.

Trên đường Thoại Ngọc Hầu có khu nghĩa địa, hồi đó tôi thường ra chơi. Khu này khá rộng, và chia thành 4-5 khu nghĩa trang nhỏ, mà đất thánh Tân Định chỉ là một. Sau năm 75, khu này bị giải tỏa, một phần thành chợ Phạm Văn Hai, nhiều phần thành khu dân cư. Tôi ra đây bốc mộ bác tôi đem thiêu. Mới đây một người bạn cũ năm xưa ở Tân Định gửi cho tôi bài của ông Cù liên quan đến khu nghĩa địa này, tôi mới biết trên đất này đã từng có một nhà thờ nhỏ hồi cuối thế kỷ XIX.

Cũng có người gửi cho tôi vài bài viết của ông Cù, nói về giới văn nghệ sĩ từng ở khu Ông Tạ “mở rộng”. Tôi chỉ đọc lướt chứ không quan tâm nhiều tới đời tư của giới văn nghệ sĩ. Điều đọng lại trong tôi là tác phẩm của họ.

Tôi không đọc sách của ông Cù nói về Ông Tạ. Bài đầu tiên của ông Cù mà tôi đọc là mẩu tin của ông đăng trên Facebook nói về bà Alice, vợ của nhà văn Hoàng Hải Thủy vừa qua đời. Tôi không thích tiểu thuyết của Hoàng Hải Thủy vì đa phần là ông dịch phóng tác, nhưng văn ông viết rất mượt mà, tự nhiên như kể chuyện nên mấy bà mấy cô rất thích. Sau khi đi tù vài năm vì tội “biệt kích văn hóa”, ông qua Mỹ, viết lai rai trên trang web của ông mục “Viết Ở Rừng Phong”, tôi lại rất thích và đọc thường xuyên. Bây giờ thỉnh thoảng vẫn vào xem lại.

HHT ăn chơi phóng túng, có phần bạt mạng nữa, nhưng đó là “tay chơi biết sợ mưa rơi”. Ông rất thương vợ và nể vợ một cách đặc biệt. Có giai thoại hồi trước năm 75 nói, bà Alice giận HHT vì chuyện gì đó, bỏ nhà đi. HHT bỏ hết mọi chuyện đi tìm vợ, thậm chí đăng báo xin lỗi, năn nỉ vợ về. Tôi không biết giai thoại này có đúng không. Ai biết xác nhận giùm. Trong mục “Viết Ở Rừng Phong” vào những năm cuối đời, thỉnh thoảng ông vẫn nhắc đến bà Alice như một thực thể không thể tách rời cuộc đời ông. Khi biết được tin bà Alice qua đời, tôi “chặc” lưỡi, Hoàng Hải Thủy sắp kết thúc rồi! Khoảng hai năm sau ông mất.

Trở lại chuyện ông Cù. Tôi có cảm giác ông là nhà báo hơn là viết khảo cứu (có lẽ tại tôi méo mó nghề nghiệp, khó tính). Nhà văn Lê Văn Nghĩa, học Petrus Ký, nhưng “ham vui” sớm nên được “mời” đi Côn Đảo thăm chị Sáu từ năm 16 tuổi. Năm 75 ra tù, ông viết báo. Khi viết về con người Sài Gòn ông dựa vào phỏng vấn nhân vật và tài liệu trên báo mạng là chính. Có lần ngồi nhậu với nhau, tôi nhắc khéo LVN rằng, thưởng thức thơ Du Tử Lê thì OK, nhưng dựa vào những gì DTL viết về các nhân vật văn nghệ sĩ trước 75 thì nên thận trọng. Tôi quý LVN vì y tôn trọng nguyên tắc: Viết tốt về người ta mà sai thì không sao. Nhưng viết những điều không tốt hay bi thảm hóa người ta mà viết sai thì làm tổn thương họ và gia đình họ. Dù chỉ đọc vài bài của ông Cù viết về nhân vật của Ông Tạ, tôi có cảm tưởng ông Cù cũng đi theo nguyên tắc này.

Ông Cù cứ thoải mái mở rộng đất đai Ông Tạ, theo chiều dọc hay theo chiều ngang là tùy ông, nhưng đã mở rộng thì những bài viết của ông cũng phải mở rộng theo. Ông Cù chuyên viết về Ông Tạ, nơi ông sinh ra và lớn lên. Tôi gọi Cù Mai Công là “Cù Ông Tạ” luôn cho tiện.

Pho ong Cu 01
Chợ Ông Tạ ngày trước Tết năm 1968. (Ảnh: Harold Boehlert, Vietnam Public Domain)

Vũ Thế Thành

(*) Đường Thoại Ngọc Hầu (nay là Phạm Văn Hai) – Đ. Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng) – Đ. Trương Minh Ký (nay là Lê Văn Sỹ).

Đăng lại từ Facebook Vũ Thế Thành

Mời bạn đọc tìm mua các tác phẩm của tác giả Vũ Thế Thành:

Xem thêm: