Đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với bộ truyện Kiều mà không ai không biết, nhưng ít ai biết về người mẹ của ông. Cũng ít ai để ý rằng Nguyễn Du được hưởng phúc đức từ cụ tổ họ Trần bên nội, còn bên ngoại là hậu duệ của người anh hùng Nguyễn Trãi – người 5 lần vào hang hổ kiên trì thuyết phục quân Minh đầu hàng, góp phần tạo nên nhà Lê.

Họ Trần làng Hoa Thiều

Họ trần ở thôn Kim Thiều (xưa kia có tên là làng Hoa Thiều), xã Hương Mạc, Từ Sơn, Bắc Ninh nổi tiếng là dòng họ khoa bảng. Cụ tổ họ Trần đến đây từ thời Lê Sơ, con cháu sau này không còn nhớ tên, nên gọi tên là cụ Phổ Khánh. Cụ đến vùng đất Hương Mạc ở Bắc Ninh làm nghề thợ rèn. Sau đó cụ chuyển đến vùng đất ở cạnh làng Hoa Thiều sinh sống. Những câu chuyện về cụ tổ được truyền trong dòng dõi họ Trần từ đời này đến đời khác và được lưu truyền mãi cho đến nay.

Một lần, cụ Phổ Khánh đang cày ngoài đồng thì có người ăn mày rất bẩn thỉu đến xin cơm. Cụ nhường lại hẳn phần cơm buổi trưa của mình cho người ăn mày. Hôm sau lại cũng người ăn mày đó đến, lần này cụ vẫn nhịn đói nhường cả phần cơm trưa của mình. Đến ngày thứ ba, người ăn mày này lại đến và cụ tiếp tục vui vẻ cho anh ta ăn.

Lúc này người ăn mày mới thổ lộ rằng thấy cụ là người có khuôn mặt phúc hậu nên có ý đến xin cơm làm quen và bày tỏ nguyện vọng giúp đỡ. Tuy nhiên cụ Phổ Khánh vốn không thích nhờ vả ai nên từ chối. Thấy vậy, người ăn mày nhẫn nại thuyết phục, nói rằng muốn chỉ cho cụ cuộc đất tốt để đặt mồ mả. Cuối cùng, cảm động trước sự chân thành của anh ta, cụ Phổ Khánh đồng ý.

Theo dòng họ Trần đời sau truyền lại thì người ăn mày này Trần Thái Sử, nhưng không rõ là tên thật hay tên hiệu thường gọi của ông. Trần Thái Sử dẫn cụ Phổ Khánh đến cuộc đất đẹp mà theo ông có thể giúp đời đời làm vua. Nhưng khi đến nơi thì cụ được biết cụ Tả Ao trước đó đã đến chọn làm nơi xây chùa cho ngôi làng ở đó rồi.

Trần Thái Sử đành tìm một cuộc đất khác nhưng không thể linh thiêng như cuộc đất trước và nói cuộc đất này là: “Đời thứ nhất long đong, đời thứ hai bần hàn, đời thứ ba bắt đầu ổn định, đời thứ tư có danh, từ đời thứ năm trở đi văn chương lai láng, công danh rộng mở”.

Sau này con cháu họ Trần ở Hoa Thiều xem lại lịch sử gia phả thì quả thật rất đúng. Gia phả mô tả cụ tổ Phổ Khánh là người có giọng nói ấm áp, khuôn mặt phúc hậu. Sau đó các vị tổ từ đời thứ nhất đến thứ ba trọng chữ nghĩa nhưng thi cử chỉ đỗ tương đương tú tài. Dầu vậy thời đấy đỗ tú tài cũng được xem là người có chữ nghĩa và được xem cả làng xem trọng rồi.

Đời đời đỗ đạt làm quan

Đến đời thứ tư, họ Trần Hoa Thiều có Trần Nhiễm Khê sinh năm 1472, từ trẻ đã nổi tiếng về tài văn thơ, vượt qua được kỳ thi Hương, qua được tam trường kỳ thi Hội, nổi tiếng với những bài phú hay, được Triều đình bổ nhiệm làm quan ở phủ Ứng Thiên (này thuộc Hà Tây).

Sau này ông được cử làm giáo thụ giảng dạy ở trường Quốc Tử Giám, khi mất được Vua phong là “Thái bảo thiện dụ hầu”.

Đời thứ năm của họ Trần Hoa Thiều có Trần Ngạn Húc rất thông minh uyên bác, năm 28 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương tức Giải nguyên, khoa thi năm 1538 đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Thừa sứ đạo Tuyên Quang.

Đời thứ sáu có Trần Phi Nhỡn, năm 28 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương, năm 45 tuổi đỗ tiến sĩ, làm Thượng thư Hộ bộ cho nhà Mạc, làm thầy dạy cho Vua khi còn nhỏ.

Sau đó họ Trần ở Hoa Thiều liên tục đời nào cũng có người đỗ đạt.

Cổng Đền thờ họ Trần thôn Kim Thiều (xưa là làng Hoa Thiều). (Ảnh: Báo Giáo dục & Thời đại)

Nên duyên với quan Tể tướng đầu triều

Cháu nội của Trần Phi Nhỡn (tức đời thứ 9) là Trần Ôn vốn giỏi tính toán nên được làm câu kế (giống kế toán ngày nay) trong phủ của quan Tham tụng Nguyễn Nghiễm. Tham tụng là chức quan đầu triều thời Lê Trung Hưng, tương đương Tể tướng.

Trần Ôn kết hôn với người con gái họ Nguyễn ở làng Phù Đàm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (nay là Phù Khê, Từ Sơn – Bắc Ninh). Họ Nguyễn ở đây là hậu duệ còn sót lại của Nguyễn Trãi – người 5 lần vào thành Đông Quan kiên trì thuyết phục quân Minh đầu hàng, giúp 10 vạn quân Minh đang bị vây chặt được toàn mạng trở về.

Trần Ôn làm việc cẩn thận nên được Nguyễn Nghiễm tin dùng và trở nên ngày càng thân thiết. Một lần vào dịp cuối xuân, Trần Ôn đưa con gái của mình là Trần Thị Tần năm ấy 19 tuổi đến phủ của quan Tham tụng để cùng chơi xuân ở Kinh thành. Qua lần này, Nguyễn Nghiễm và Trần Thị Tần quen biết nhau. Sau đó Nguyễn Nghiễm hỏi cưới Trần Thị Tần làm vợ.

Trần Thị Tần là khoa khôi làng Hoa Thiều xứ Kinh Bắc nổi tiếng với dòng sông Tiêu Tương; còn Nguyễn Nghiễm ở ngôi Tể Tướng suốt 15 năm được xem là bậc tinh anh, người ở làng Tiên Điền (huyện Nghi Xuân, Hà Tỉnh) nổi tiếng với núi Hồng Lĩnh. Vậy nên người làng Hoa Thiều khi ấy có câu:

Trai Tiên Điền tinh anh Hồng Lĩnh
Gái Kinh Bắc thanh sắc Tiêu Tương

Nhân tài hưởng phúc đức của họ ngoại

Trần Thị Tần có 4 người con, năm 1765 sinh hạ người con thứ hai đặt tên là Nguyễn Du. Từ nhỏ Nguyễn Du ở trong Phủ ở Kinh Thành, nhưng cũng hay cùng mẹ về làng Hoa Thiều. Quê ngoại vốn nổi tiếng với những lời quan họ ngân nga, gieo vào lòng cậu bé cảm xúc, ươm mầm thơ ca cho cậu bé sau này.

Những sáng tác của Nguyễn Du sau này có nhiều câu mang đậm dân ca quan họ Bắc Ninh, như trong truyện Kiều có câu:

Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu

hay

Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.

Người làng Hoa Thiều cũng như các làng quan họ Bắc Ninh khi đọc truyện Kiều đã nhận ra rất nhiều lời  quan họ trong đó:

Sinh rằng: Hay nói dè chừng
Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao?

Hay là:

Nữa khi giông tố phũ phàng
Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đây.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: