Thời điểm mà Triều đình bỏ các kỳ thi khoa cử truyền thống, chữ quốc ngữ lên ngôi, chữ Hán không còn được xem trọng, Trúc Khê vẫn kiên trì học chữ Hán, nhờ đó mà ông có các tác phẩm, dịch thuật, khảo cứu rất có giá trị.

truc khe
Chân dung nhà văn Trúc Khê. (Ảnh: Chụp 1935, lấy từ Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện, Wikipedia, Public Domain)

Trúc Khê Ngô Văn Triện sinh năm 1901 ở thôn Thị Cấm, xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm (nay là phố Thị Cấm, phường Xuân Phương), thành phố Hà Nội.

Năm lên 6 tuổi cậu bé được theo học chữ Hán với một thầy đồ trong làng, năm 11 tuổi thì học chữ quốc ngữ ở trường Pháp – Việt, tự học thêm tiếng Pháp.

Vì gia cảnh không khá giả gì, nên cậu bé Văn Triện phải vừa đi chăn trâu vừa học. Lúc này Triều đình đã bỏ chế độ khoa cử, chữ Hán không còn là chữ quốc ngữ, ít người xem trọng, nhưng Văn Triện vẫn tiếp tục học chữ Hán.

Năm 16 -17 tuổi, cậu đi làm thợ đan đăng-ten rồi sang làm thợ đóng sách ở nhà in Thực Nghiệp, Hà Nội. Năm 19 tuổi Văn Triện bắt đầu sự nghiệp sáng tác văn học, lấy bút danh là Trúc Khê (竹溪).

Hoàn cảnh xã hội

Thời thuộc Pháp, lúc đầu chính quyền Pháp muốn duy trì hành chính và phong tục giống như trước đây mà không thay đổi, vì như thế rất ổn định. Tuy nhiên khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ở Việt Nam, Pháp thực hiện kế hoạch khai thác thuộc địa lần 2 (1919 – 1929), tăng cường khai thác tài nguyên, bóc lột dân chúng nhằm bù đắp thiệt hại trong thế chiến thứ nhất. Nhiều phong trào yêu nước nổ ra như phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, đặc biệt là phong trào kháng thuế Trung Kỳ. Những việc này ảnh hưởng đến kế hoạch khai thác thuộc địa.

Người Pháp thấy cần phải thay đổi quản lý dân chúng từ cấp làng xã, nhưng việc thay đổi tập quán tư tưởng có từ hàng nghìn năm là không dễ dàng. Vì thế chính quyền Pháp chọn các làng xã thuộc tỉnh Hà Đông để thử nghiệm chính sách mới, nếu thành công sẽ áp dụng trên toàn Bắc kỳ, và gọi chính sách thử nghiệm này là “cải lương hương thôn”.

Có nhiều bài viết về chủ đề này được đăng trên báo chí như “Trung Bắc Tân Văn”, “Nam Phong” hay “Đông Dương Tạp Chí”.

Trúc Khê có bài viết đầu tiên về vấn đề này, lấy tên là “Cải lương hương tục” được đăng trên tờ “Trung Bắc Tân Văn” năm 1920. Từ đó ông có nhiều bài viết khác nhau, trở thành nhà văn với các bút danh như: Cấm Khê, Kim Phượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình,…

Năm 1926, Trúc Khê nằm trong Ban biên tập của “Thực nghiệp dân báo”, có mối quan hệ với các tổ chức khác nhau với mưu cầu đánh đuổi quân Pháp, giành độc lập cho dân tộc.

Tháng 12/1927, Việt Nam quốc dân đảng được thành lập, Trúc Khê đã tham gia vào đảng này. Tuy nhiên đến năm 1929 thì các hoạt động chống Pháp của ông bị người Pháp hiện, ông bị Pháp bắt và giam ở Hỏa Lò với mức án 2 năm tù treo và 5 năm quản thúc.

Sau khi ra tù Trúc Khê tiếp tục làm báo. Năm 1933, ông làm chủ bút báo Bắc Hà, năm sau lại làm chủ bút cho báo Thương Mại, từ đó ông có rất nhiều bài viết và được đăng trên hầu hết các báo vào thời điểm đó.

Là người giỏi chữ Hán, từ năm 1937 đến 1945, ông dịch thuật và biên khảo khoảng 60 cuốn sách về văn hóa lịch sử. Đến năm 1947 thì ông mất.

Để lại kho tàng văn học

Trúc Khê để lại một kho tàng văn học đồ sộ, trong đó có những tác phẩm của ông, các tác phẩm dịch thuật và biên khảo rất giá trị như: “Lịch sử Nam tiến của dân tộc ta”, “Đò Chiều”, “Ức Trai thi tập”, “Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ”, “thơ Lý Bạch”, “thơ Đỗ Phủ”

Giáo sư Vũ Khiêu đã đánh giá rằng: “Ông để lại cho nền văn học một tài sản đồ sộ, có cả chiều rộng lẫn chiều sâu, lưu lại một dấu son trong lòng độc giả hiếu học”.

Nhà nghiên cứu Văn Tâm trong “Từ điển Văn học” có viết về Trúc Khê như sau:

“Trúc Khê dịch thơ chưa thật đặc sắc, nhưng cố gắng bám sát nguyên tác; biên khảo với tinh thần cấp tiến.”

“Một bộ phận đáng chú ý trong sự nghiệp văn học của ông là những truyện ký danh nhân. Tất nhiên, không tránh khỏi hạn chế về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật; nhưng với quan điểm tiến bộ, vốn Hán học sâu rộng, và bút pháp cũng khá nhuần nhị; ông truyền đạt tư liệu lịch sử có hệ thống, việt được một số trang khá hấp dẫn với những lời bình đúng mực.”

“Vốn có lòng yêu nước, cho nên ông đã viết một số phẩm theo thể loại này cốt để đề cao tinh thần dân tộc như chính ông có lần bộc lộ: “Tiểu thuyết lịch sử… phải làm cho người đọc sinh lòng nhớ mến nước cũ, có mối cảm tình thắm thiết với chủng tộc, giang sơn”.”

Là một nhà văn trong phong trào sáng tác phong cách mới, Trúc Khê không tránh khỏi là người theo số đông, trong tác phẩm “Hồn quê” ông có những câu phê phán phong tục truyền thống của dân tộc.

Trúc Khê để lại rất nhiều tác phẩm văn thơ, khi đến Hát Môn ông đã làm bài thơ “Đề miếu Hai Bà Trưng” như sau:

Gác mái, con thuyền đỗ bến hoa,
Lên đây mới biết miếu Hai Bà.
Ba năm sự nghiệp, nghìn thu để,
Nữ chúa tên ghi sử nước nhà.

Hay bài thơ “Cùng chị Hằng” nhân dịp Trung Thu:

Đêm thu tựa dưới gốc ngô đồng,
Cùng chị Hằng Nga giãi tấm lòng.
Trên nguyệt ờ hay mình sướng nhỉ!
Dưới trần có biết tớ buồn không?
Thanh nhàn một kiếp nơi cung quế;
Dầu dãi trăm năm chốn bụi hồng.
Lý Trích Tiên còn chưa hết hạn,
Mệt mê trong cuộc rượu thơ ngông.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: