Doãn Khuê: Vị quan lập công đánh phỉ, mở đất, đào tạo học trò thời Nguyễn
- Trần Hưng
- •
Họ Doãn ở làng Ngoại Lãng huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương (nay là xã Song Lãng, Vũ Thư – Thái Bình) là dòng họ hiếu học. Dòng họ xuất sinh ông Doãn Khuê là vị quan có công trong việc đánh phỉ, mở đất, đào tạo học trò, góp phần tạo nên một thế hệ cho các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của dân tộc.
Thi đỗ tiến sĩ
Vào đầu thế kỷ 19 thời nhà Nguyễn, dòng họ Doãn có ông Doãn Phác học giỏi nhưng không đi thi mà ở nhà dạy học. Doãn Phác có người con trai là Doãn Khuê.
Được cha dạy dỗ nên Doãn Khuê học rất giỏi, nhưng do gia cảnh quá nghèo khó nên khi Doãn Khuê lên 9 tuổi thì gia đình gửi sang nhà người bác Doãn Khai, vừa chăn trâu vừa học chữ từ người bác.
Năm Doãn Khuê 11 tuổi thì cha mẹ lần lượt qua đời. Sau một thời gian người bác cho Doãn Khuê học với cụ Phạm Diệu (thân phụ của tiến sĩ Phạm Thế Hiển) ở Luyến Khuyết (xã Thụy Phong, Thái Thụy – Thái Bình).
Khoa thi năm 1837, Doãn Khê năm ấy đã 24 tuổi đăng ký tham dự và đỗ cử nhân, được vào Huế dự kỳ thi Hội vào năm 1838 và đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân.
Làm quan vì dân
Doãn Khuê làm quan qua 3 đời Vua là Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, trải qua nhiều chức vụ khác nhau. Ông làm quan không phải vì “vinh thân” mà vì dân chúng nên không thuận buồm xuôi gió mà có những lúc trắc trở như khi ông phải từ quan hay khi mất chức, có những lúc bị thuyên chuyển.
Như khi làm Giám sát Ngự sứ vùng Cao Bằng – Lạng Sơn, thấy quan lại nơi đây ức hiếp dân chúng, ông đã can ngăn và làm sớ tâu đến Triều đình nhưng Triều đình làm ngơ. Bất lực ông làm đơn xin nghỉ về quê tĩnh dưỡng. Trong thư gửi Tham tri Lễ bộ Trần Bá Đạt, ông viết:
“Được sự tin cậy của nhân huynh và nhận trọng trách của triều đình, chả nhẽ lại phụ tin. Tôi làm hết sức mình trong phạm vi chức trách mà chẳng can ngăn được những việc chướng tai gai mắt, vi phạm phép nước.
Họ vin cớ ở nơi biên cương xa cung khuyết làm nhiều điều xằng bậy, nào là tệ hối lộ, tệ dùng lính tráng làm việc riêng cho gia đình, nào là xét xử các vụ án không công minh, buôn bán vàng bạc, thuốc phiện qua biên giới, không có phương sách ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc. Tôi đã nhiều lần viết sớ tấu về kinh nhưng không có kết quả gì”.
Về quê nhà, Doãn Khuê mở trường dạy học, sĩ tử các nơi đến học rất đông. Lứa học trò của ông nhiều người đỗ đạt, trở thành nòng cốt cho các phong trào yêu nước sau này như Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích là người thu phục được thủ lĩnh quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, sau này khởi nghĩa chống Pháp, trở thành cái nôi cho nhiều cuộc khởi nghĩa ở miền bắc; cử nhân Bùi Viên; cử nhân Nguyễn Quang Huy.
Năm 1861, vua Tự Đức lại mời ông ra làm quan, cử làm Đốc học vùng Sơn Tây.
Đánh lui quân thổ phỉ Thái bình thiên quốc
Lúc này tàn quân Thái Bình Thiên Quốc của nhà Thanh vượt biên giới vào Đại Nam, hình thành các đội quân Cờ Trắng, Cờ Đen, Cờ Vàng… Đám quân thổ phỉ này được trang bị chính quy hiện đại, tấn công đánh chiếm các phủ thành nơi biên giới, cướp của dân chúng.
Vua Tự Đức giao cho Doãn Khuê làm Tổng đốc Sơn Tây. Doãn Khuê cùng rất nhiều con cháu người nhà cầm quân đánh thổ phỉ, trong đó có 2 con trai là Doãn Chi và Doãn Giốc.
Doãn Khuê cùng con là Doãn Chi đưa quân tiến đánh thu lại được phủ Vĩnh Tường và Quốc Oai.
Cháu của ông là Doãn Chính đóng quân ở phủ Phú Bình. Tháng 7/1862, thổ phỉ đưa quân tấn công Phú Bình, vây phủ suốt 3 tháng liền. Doãn Chính nỗ lực cùng quân chống cự đến cùng, tuy nhiên các cánh quân đều lo chống đỡ các nơi, Triều đình không có quân cứu viện đến. Cuối cùng cạn lương không thể đánh tiếp Doãn Chính đã tuẫn tiết.
Do quân thổ phỉ rất mạnh, em của Doãn Chính là Doãn Trứ tự mộ quân rồi tiến đánh thổ phỉ. Các trận đánh diễn ra rất ác liệt, Doãn Khuê bị thương, con trai ông là Doãn Giốc và cháu là Doãn Trứ tử trận. Cuối cùng Doãn Khuê đã đánh lui đám thổ phỉ, thu lại các phủ thành và đất đai.
Khai phá đất đai lập 2 huyện mới
Khi tình hình Sơn Tây yên ổn trở lại, Doãn Khuê lại được điều đến Nam Định làm Đốc học. Lúc này Triều đình nhà Nguyễn vừa ký hòa ước với Pháp để mất 6 tỉnh Nam bộ, quân và dân chúng phản đối Triều đình và chống Pháp. Doãn Khuê ủng hộ việc chống Pháp và không đồng ý với việc Triều đình ký hòa ước để mất 6 tỉnh Nam bộ.
Vì Triều đình không quan tâm đến ý kiến của các sĩ phu yêu nước, một lần nữa Doãn Khuê liền từ quan. Nhưng Triều đình không chấp nhận mà sung thêm cho ông chức Thương biện kiêm Hải phòng sứ. Ông ra sức bố phòng vùng biển từ Ninh Bình đến Nam Định, Thái Bình.
Trong lúc khảo sát vùng biển, nhận thấy nhiều nơi đất đai chưa được khai phá, ông gửi tấu trình xin cho dân được khai phá những vùng đất này.
Sau đó ông thôi chức Đốc học, chỉ giữ chức Doanh điền sứ để tâp trung vào việc cùng dân khai phá các vùng đất mới, lập thêm hai huyện là Tiền Hải (Thái Bình) và Nghĩa Hưng (Nam Định).
Năm 1873, Pháp tấn công thành Hà Nội lần thứ nhất, rồi đưa quân tiến đánh các tỉnh miền bắc. Doãn Khuê cho quân lập phòng tuyến bảo vệ Nam Định. Quân Pháp tiến đánh Nam Định với vũ khí hiện đại hỏa lực mạnh khiến quân Triều đình không thể ngăn được, Doãn Khuê bị cách chức.
Năm 1874, quân Pháp rút khỏi miền bắc, Doãn Khuê được khôi phục chức và phong làm Thị giảng học sĩ, tước Quang lộc tự khanh. Tuy nhiên ông từ chối và xin được hưu trí.
Con trai ông là Doãn Đê, Doãn Vị trở thành thủ lĩnh chống Pháp. Rất nhiều học trò của ông trở thành nhân sĩ có tiếng, là những nhân vật chủ chốt trong các cuộc khởi nghĩa chống Pháp sau này.
Trần Hưng
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ khóa nhà Nguyễn khoa bảng
