Thổ phỉ nhà Thanh ở Đại Nam (P6)
- Trần Hưng
- •
Sau thất bại ở Sơn Tây, nhà Thanh hốt hoảng tăng thêm quân đến Đại Nam vì không muốn miền bắc rơi vào tay quân Pháp. Tổng số quân Thanh lên đến 5 vạn, quân Cờ Đen cũng được tăng cường, quân số lên mức 3.000 như trước.
- Tiếp theo phần 5
Pháp cũng tăng cường thêm quân, đồng thời Trung tướng Millot được cử làm Thống đốc quân vụ Bắc kỳ thay cho Courbet.
Tháng 3/1884, Pháp đưa hơn 16.000 quân tiến đánh Bắc Ninh. Vì đây là cửa ngõ sang Trung Quốc nên quân Thanh cho 2 vạn quân cùng nhiều pháo phòng thủ nơi đây. Tuy nhiên quân Pháp nhanh chóng chiếm được Bắc Ninh.
Thất bại khiến nhà Thanh rất giận dữ và xử tội các tướng chỉ huy rút chạy khiến thua trận. Tướng chỉ huy quân Thanh ở Bắc Hà là Từ Diên Húc bị đưa về Tử Cấm Thành xử tội và chết trong ngục, 2 tướng chỉ huy bị chặt đầu, tướng Hoàng Quế Lan bị xử uống thuốc độc chết.
Sau đó quân Pháp tiến đánh Thái Nguyên, 5.000 quân Thanh hầu như chỉ cầm cự rồi bỏ chạy thoát thân, 1.000 quân Việt chống cự quân Pháp cho đến lúc chỉ huy là Thủ úy Nguyễn Quang Khoang bị trúng đạn ngã xuống thì quân Việt cũng tan.
Trận Hưng Hóa
Chiếm được Thái Nguyên, quân Pháp tiến đánh Hưng Hóa. Đây là vùng đất rộng lớn bao gồm tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, một phần lãnh thổ Lào và một phần tỉnh Vân Nam của Trung Quốc ngày nay. Thành Hưng Hóa nằm ở ven bờ đầm Dị Nậu thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ ngày nay.
Thấy quân Pháp tiến đánh, tướng chỉ huy quân Thanh là Sầm Dục Anh vội cho 12.000 quân rút đến Yên Bái. Hoàng Kế Viêm đưa quân đến xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, Phú Thọ, sau đó thì rút về Huế.
Tuần phủ Nguyễn Quang Bích vốn không về theo Triều đình, có 1.000 quân ít ỏi nhưng quyết chống Pháp. 3.000 quân Cờ Đen cũng quyết chống quân Pháp ở đây. Ở phía bên kia, 7.000 quân Pháp đông và mạnh hơn rất nhiều.
Lưu Vĩnh Phúc đưa quân Cờ Đen phòng thủ ngoài thành, Nguyễn Quang Bích phòng thủ trong thành.
Quân Pháp dùng khinh khí cầu bay trên cao quan sát, nhận thấy lực lượng đông đảo của quân Thanh và quân của Hoàng Kế Viêm đã rời đi, liền cho nã pháo vào thành Hưng Hóa.
Quân Pháp tấn công vào thành, quân Cờ Đen và quân Việt bình tĩnh cùng phối hợp đẩy lui quân Pháp. Tuy nhiên 7.000 quân Pháp thay nhau tấn công liên tục với hỏa lực rất mạnh, khiến vòng ngoài không thể giữ được, quân Cờ Đen và quân Việt dồn hết vào trong thành cố thủ.
Quân Pháp bắn sập tường thành rồi tấn công vào. Dù quân ít và yếu hơn nhưng quân thủ thành vẫn quả cảm chống lại quân Pháp đến tận chiều tối.
Nhận thấy đã không thể giữ được thành, Nguyễn Quang Bích định leo lên kính thiên đài trên cột cờ chết cùng thành, nhưng các thuộc tướng quyết can ông lại. Tất cả cùng đánh thoát ra ngoài, lên ngựa chạy đến đình làng Tứ Mỹ (thuộc huyện Tam Nông, Phú Thọ), sau này lập nên căn cứ Tiên Động, Cẩm Khê, Phú Thọ – trở thành trung tâm chống Pháp ở miền bắc.
Trận Tuyên Quang

Quân Cờ Đen chạy tới Tuyên Quang củng cố lực lượng. Quân Pháp tiến đánh Tuyên Quang. Nhận thấy không thể đương đầu với quân Pháp, Lưu Vĩnh Phúc cho quân cầm cự 1 tiếng đồng hồ nhằm tiêu hao binh lực quân Pháp rồi mới rút đi.
Quân Pháp chiếm được Tuyên Quang thì xây dựng bộ máy quan lại nhà Nguyễn ở đây, sau đó đại bộ phận rút đi, để lại 630 quân.
Tướng nhà Thanh là Sầm Dục Anh đưa 12.000 quân, cùng quân Cờ Đen đánh thành Tuyên Quang. Nhưng khi vào trận thì quân Thanh chỉ quan sát, chỉ có quân Cờ Đen lâm trận. Quân Pháp dù ít quân hơn nhưng nhờ vũ khí hiện đại cũng quyết chống cự.
Cuốn “Việt Nam sử lược” mô tả rằng: “Lưu Vĩnh Phúc đem quân lên đánh thành Tuyên Quang; đánh mãi đến 15 tháng Chạp (1884) mới vây được thành. Quân Cờ Đen dùng đủ kế để phá thành, mà quân Pháp ở trong thành cũng cố hết sức để chống giữ”.
Tân chỉ huy Bắc Hà là Brière de l’Isle phải cho đạo quân 5.000 người của Giovanninelle cùng 9 tàu chiến có đại bác đi giải cứu Tuyên Quang. Khi quân cứu viện đến thì quân Pháp ở thành Tuyên Quang đã thiệt mạng một nửa tức 300 quân.
5.000 quân Pháp cứu viện đến nơi, hình thành thế ngoài đánh vào trong đánh ra. Quân Cờ Đen dù ít hơn nhưng không nao núng, hai bên giao chiến quyết liệt.
Trận đánh ác liệt nhất diễn ra khi Giovanninelle cho quân đến Hòa Mộc ở trên bờ sông Lô, cách thành Tuyên Quang chỉ vài dặm về phía đông nam. Tại đây quân Pháp gặp quân Cờ Đen.
Trận đánh ở Hòa Mộc bắt đầu từ sáng ngày 2/3 đến tận tối. Tối đến, quân Pháp không nhìn rõ nên vũ khí hiện đại không phát huy được sở trường. Quân Cờ Đen có cơ hội bất ngờ tấn công mạnh cả đêm khiến quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, đến sáng quân Cờ Đen bắn đã hết đạn nên phải rút đi.
Cuốn “Đại cương lịch sử Việt Nam” ghi chép rằng:
“Trận địa lôi ở Hòa Mục (tức Hòa Mộc) cũng như trận đánh hầm ở quanh thành Tuyên, đều đã nêu cao tên của Lưu Vĩnh Phúc. Ông chính là một vị tướng tài cao trí cả nhất nhì trong suốt thời kỳ 40 năm kháng Pháp của dân tộc Việt Nam”.
“Quân của Sầm Dục Anh tuy đông mà vẫn bất động, chỉ xem Lưu đoàn (tức quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc) và nghĩa quân Việt Nam giáp chiến với 5.000 quân Pháp. Rồi sau đó, lại kéo nhau chạy làm nao núng hàng ngũ của Lưu, cộng thêm quân của Lưu cũng đã hết đạn, nên phải lui ra đóng ở ngòi Thanh Thủy”.
Về sự thiệt hại của quân Pháp, sách “Việt sử tân biên” ghi chép rằng: “Sau trận chiến này Pháp đã thiệt 1/3 quân số. Nhiều sĩ quan và binh lính Pháp đã ngã gục vì ống phun lửa, vì mìn và vì trái phá”. Tuy nhiên cũng có nguồn cho rằng “Việt sử tân biên” có thể đã tính cả số quân bị chết và bị thương.
Thủ lĩnh quân Cờ Đen là Lưu Vĩnh Phúc sau trận đánh đã nói rằng: “Đã vào trăm trận, chưa có trận nào thắng lớn như trận này”.
(Còn nữa)
Trần Hưng
Xem thêm:
- Cuộc khởi nghĩa cần vương chống Pháp của Lê Mô Khởi (Phần 1)
- Cuộc tấn công bất ngờ vào tòa Khâm Sứ Pháp ở Huế (P1)
Mời xem video:
Từ khóa lịch sử Việt Nam nhà Nguyễn chống Pháp
