Ngẫm về “ý thức cảnh báo nguy hiểm” của nhiều người Việt
- Minh Huy
- •
Thông thường, những thứ nguy hiểm như điện cao thế, hỏa hoạn, hay vũ khí sẽ khiến con người ta nảy sinh ý thức cảnh báo nguy hiểm. Nhưng đây đều là những thứ hữu hình, dù đáng sợ vẫn có thể biết mà tránh. Còn ý thức cảnh báo nguy hiểm của nhiều người Việt lại đến từ những thứ vô hình.
Hãy thử ngẫm việc này. Ở nước ngoài, người ta cảm thấy vượt đèn đỏ là nguy hiểm, thì ở Việt Nam, người ta làm chuyện “nguy hiểm” ấy như cơm bữa. Nhưng nếu như ở nước ngoài, nhìn thấy cảnh sát sẽ cảm thấy yên tâm, thì ở Việt Nam, không ít người cứ đột nhiên nhìn thấy cảnh sát (nhất là cảnh sát giao thông) là giật mình hốt hoảng. Đó là một chuyện kỳ lạ.
Xưa, các bà mẹ dọa con ăn bằng “ông ngáo ộp”, thì ngày nay, “nín đi không có mẹ cho công an bắt” đã trở thành một lời dọa trẻ ngay từ khi chúng còn chưa chập chững bước vào đời. “Nghé con không sợ hổ”, chú nghé nhỏ vì chưa từng gặp hổ nên tự nhiên sẽ không cho rằng hổ nguy hiểm. Ý thức cảnh báo nguy hiểm rõ ràng không tự nhiên mà sinh ra. Giáo dục có thể là một nguyên nhân dẫn đến những nỗi sợ hãi vô hình, nhưng đó không hẳn đã là điều cốt yếu.
Một nguyên nhân khác là nhiều người Việt dễ dàng phá bỏ nguyên tắc, ưa phạm lỗi lầm nhỏ, hay thích được “xí xóa” với lối nghĩ “dù không hợp lý nhưng vẫn hợp tình”. Vượt đèn đỏ, vứt rác bừa bãi, đi muộn về sớm, hay thậm chí là khạc nhổ, đái bậy… chúng ta luôn sống trong cảm giác “mình đang sai” chứ không phải là “mình đang đúng”. Đây là một loại cảm giác tội lỗi vô thức, “không tự biết”.
Suy ngẫm kỹ hơn, ý thức cảnh báo nguy hiểm của một số người Việt còn tới từ một thứ “văn hóa”, hành vi, hay tâm lý ẩn giấu trong cuộc sống thường nhật. Loại tâm lý ấy khiến người ta sống không thật lòng với nhau, tranh đấu, hơn thua chỉ vì chút lợi nhỏ. Dù không phải là tất cả, ở không ít nơi, người ta thường luôn phải tự hỏi là rốt cuộc ai sẽ “đâm” cho mình một nhát, tiết lộ bí mật của mình, thậm chí ngay cả khi đó là người mình đã từng xả thân cứu giúp. Nhiều người Việt có tâm lý cảnh giác lẫn nhau. Thậm chí ngay cả ở nước ngoài, tâm lý của một số người Việt vẫn là “ganh đua” chứ không phải là “giúp đỡ”.
Một trong những nguyên nhân sâu xa của loại tâm lý này có lẽ là từ những cuộc vận động và đấu tố thời chiến tranh và thời hậu chiến. Bất kể ai có ý kiến bất đồng, có suy nghĩ khác biệt, đều bị quy kết là phản động, bị tố giác, bị chỉ điểm, bị trừng phạt từ nhỏ tới lớn, từ kinh tế, danh dự, tâm hồn, thể xác cho tới sinh mệnh.
Để bảo vệ bản thân, một công tố viên vô hình được hình thành trong ý thức của người ta, không nơi đâu không có mặt, giám sát khống chế tư duy của họ. Thời đó, những cách nghĩ không phù hợp với quan niệm chung đều khiến người ta phải nhanh chóng dập tắt.
Với tâm lý này, người ta hình thành những quy tắc và tự đo lường cách nghĩ của bản thân và người khác, tự khoanh vùng giam bản thân mình, nỗ lực dập tắt cách nghĩ nào không phù hợp với quy tắc. Thậm chí dù đã cách thời hậu chiến nhiều năm, người ta vẫn sợ hãi một cách “bản năng”, không dám bộc lộ suy nghĩ thực của mình về những vấn đề “hơi nhạy cảm”, có bàn luận thì cũng là “nói nhỏ thôi” kẻo người khác nghe thấy. Và thi thoảng những sự việc xảy ra trong xã hội ngày nay cũng làm gia tăng thêm cảm giác ấy.
Về mặt tâm lý, “ý thức cảnh báo nguy hiểm” bắt nguồn từ sự “sợ hãi”. Trong đầu nghĩ gì không ai biết, sao lại sợ? Bởi vì hành vi của con người bị tư tưởng của con người khống chế. Nếu trong tư tưởng có những quan niệm không phù hợp với “nguyên tắc”, thì rất có thể một lúc nào đó sẽ lỡ miệng, sẽ lỡ làm gì đó, và sẽ chịu thiệt thòi. Cho nên người ta vì bảo vệ mình, ngay cả tư tưởng trái chiều cũng đều phải tự mình giữ chặt. Không chỉ bản thân mình giữ chặt, mà còn phải khiến người khác giữ chặt. Cả một xã hội tạo thành một môi trường như vậy, và môi trường này lại quay ngược lại gia tăng “ý thức cảnh báo nguy hiểm”.
Người Việt trong nước hay có một cách tư duy phổ biến là tránh xa việc “làm chính trị”. Chính trị là từ Hán Việt. “Chính” (政) bao gồm hai ý nghĩa, một là “ngay chính”, hai là dùng “văn” mà “bình thiên hạ”. “Trị” (治) đại biểu cho một trạng thái xã hội tốt đẹp, đối lập với “loạn”. Quản lý xã hội, dùng điều ngay chính làm cho xã hội tốt đẹp lên nghĩa là “chính trị”. Trong lịch sử Việt Nam có rất nhiều chính trị gia nổi tiếng như Trần Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, hay Lê Đại Hành. Ở phương Tây và ở Việt Nam trong quá khứ, chính trị gia, quan lại hay hoàng đế có lẽ là một vinh dự mà nhiều người theo đuổi. Dường như chỉ đến thời nay, người ta mới xem “chính trị” là một chuyện cần phải tránh né.
Nếu theo tư duy chính thường mà nhìn nhận, một người đòi hỏi quyền lợi chính đáng, hoặc có ý kiến về chính sách và hiện tượng xã hội, thì cũng là lẽ bình thường, bản thân việc này chính là “làm chính trị” rồi. Nghịch lý là ở chỗ người Việt từ bé đến lớn đều tham gia vào cái mà ngày nay chúng ta hiểu là “chính trị”. Ngay từ cấp tiểu học, trẻ con đã phải “phấn đấu” để được làm đội viên. Lớn rồi, thì những bài học về “chính trị” lại đi kèm trong những giờ Giáo dục công dân và Lịch sử. Tiếp nữa khi lên đại học thì được giáo dục về “kinh tế chính trị”, về chủ nghĩa này, chủ nghĩa kia. Vào xã hội thì đi lên nhờ “chính trị”. Với những sự kiện quan trọng trong xã hội, người ta lại càng không tránh khỏi việc phải biểu đạt thái độ, trong đó “im lặng” cũng là một loại hình thức. Vài chục năm trước, trong nhà có trồng vài cây rau, nuôi vài con gà, con lợn, cũng đều là vấn đề “chính trị”…
“Chính trị” đã bị choàng lên một hàm nghĩa mà người ta không dám nói ra, nhưng ai ai cũng hiểu. Người ta sợ hãi khi bị chụp cho cái mũ “làm chính trị”.
Tương tự như vậy, từ “phản động” có nghĩa là nghĩ khác với quan niệm chung, vốn chẳng hề mang ý tranh đấu mà người ta gắn thêm cho nó. “Chính trị” và “phản động” đã trở thành những chấn song cho nhà tù tâm lý do “ý thức cảnh báo nguy hiểm” của người Việt dựng nên.
Giờ đây, với sự phát triển mạnh của mạng xã hội, người ta đã tưởng rằng mình có một sự tự do nhất định. Nhưng trên thực tế, chúng ta đang chấp nhận hài lòng với một cái lồng rộng hơn…
Một tác gia nổi tiếng bị mù từng nói: “Thân thể tôi không tự do, nhưng tinh thần tôi tự do.” Trong một xã hội bình thường, người ta có thể có đủ kiểu giá trị quan và phương thức tư duy, có quyền được lựa chọn một cách đầy đủ, là chủ nhân trong cuộc sống của mình. Người Việt cũng cần suy nghĩ về điều đó.
Ngoài ra, có một thường thức cơ bản là “ý thức cảnh báo nguy hiểm” không phù hợp với tinh thần pháp trị hiện đại. Điều mà pháp luật của bất kỳ một nước văn minh nào trừng phạt đều là hành vi phạm tội của con người, chứ tuyệt đối không phải là tư tưởng của con người. Pháp luật chỉ có thể căn cứ vào việc một người đã làm gì mà trừng phạt họ, chứ tuyệt đối không thể căn cứ vào điều họ nghĩ gì mà trừng phạt họ. Khi chúng ta cảm thấy một cách nghĩ nào rất nguy hiểm, chúng ta nên ý thức được đây là di chứng tâm lý cần phải vượt qua.
Điều người Việt cần không phải là một sự thay đổi bên ngoài, mà chính tư duy của chúng ta phải thoát khỏi nỗi sợ hãi, khôi phục tôn nghiêm, sống có tự trọng với ý nghĩ rằng: “Mình đang làm đúng”.
Minh Huy biên tập
Xem thêm:
- Liệu chúng ta có đang lắng nghe bằng một cái miệng và một cái búa?
- Vài câu ngụy biện điển hình của nhiều người Việt
Mời xem video:
Từ khóa người Việt Tâm lý người Việt