Thời cổ đại, Hoàng đế là Thiên tử, mang mệnh trời, thay trời hành sự, còn Hoàng hậu đương nhiên là mẫu thân của vạn dân, phải tuân theo lễ nghi quy định đạo làm mẹ, ban ân cho lê dân, là bậc mẫu nghi thiên hạ. Vậy, thời cổ đại có những yêu cầu về phẩm hạnh như thế nào đối với các hậu phi? Có giống như những gì chúng ta thấy qua các bộ phim ‘cung đấu’ thời nay?

New Project 34
Bộ phim ăn khách của Trung Quốc – Chân Hoàn truyện. (Ảnh: Baidu)

Nội hàm của “mẫu nghi thiên hạ” là Hoàng hậu một mặt phải lấy tấm lòng bao dung, bác ái của một người mẹ hiền để yêu thương thần dân thiên hạ, làm tấm gương cho tất cả những người làm vợ, làm mẹ của thiên hạ, duy trì sự ổn định của giang sơn xã tắc; mặt khác phải thống lĩnh hậu cung phi tần, chú trọng tu dưỡng đạo đức, giữ cho hậu cung hòa thuận, củng cố hậu phương của Hoàng đế.

Kể từ thời Hoàng đế Càn Long, việc treo các bức tranh ‘Cung Huấn’ ở Đông Tây Lục Cung nơi các phi tử ở đã trở thành một phong tục lễ tiết của cung đình nhà Thanh.

Để đề cao đức hạnh của các hậu phi trong các triều đại cổ đại, và để các phi tử trong cung Thanh noi gương, Hoàng đế Càn Long đã ra lệnh cho các họa sĩ vẽ mười hai bức tranh Cung Huấn, mỗi bức tranh kèm theo một bài tán thơ tứ ngôn mười hai câu. Bài thơ cung huấn do chính Hoàng đế Càn Long sáng tác, và được các Đại học sĩ Trương Chiếu, Lương Thi Chính, Uông Do Đôn lần lượt đề tự.

Hoàng đế Càn Long còn tự tay đề biển cho các cung điện tương ứng với bức cung huấn được treo.

Thông thường, vào ngày 26 tháng Chạp âm lịch hàng năm, cùng ngày treo Thần môn (vị Thần treo ở ngoài cửa) và dán câu đối, những người đứng đầu của 12 cung sẽ cung kính treo các bức cung huấn đã được ngự phê ở tiền điện của mỗi cung. 

Tại tiền điện, thơ cung huấn được treo ở bức tường phía đông, còn tranh cung huấn được treo ở bức tường phía tây.

Đến ngày mùng 2 tháng Hai năm sau, ngày thu thần môn, các bức cung huấn của các cung sẽ được cất giữ tại Học Thi Đường phía sau Cảnh Dương Cung.

Hôm nay, chúng ta sẽ nói về nội hàm của những bức cung huấn này, còn thơ cung huấn sẽ không đi vào chi tiết.

1. Cung huấn đồ của Cảnh Nhân Cung: “Yến Cật Mộng Lan Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Cảnh Nhân Cung là “Yến Cật Mộng Lan Đồ”.

Theo ghi chép trong Tả Truyện, vào thời Xuân Thu, Trịnh Văn Công có một thị thiếp địa vị thấp kém, là người nước Nam, tên là Yến Cật. Một ngày nọ, nàng mơ thấy thiên sứ ban cho mình một cành lan, và nói: “Ta là Bá Tu, là tiên tổ của con. Sắp đầu thai làm con của con. Vì hoa lan có mùi thơm kỳ lạ, đeo nó bên mình, người khác sẽ yêu mến con như yêu hoa lan vậy”. Không lâu sau, khi Trịnh Văn Công sủng ái nàng, đã tặng nàng một cành lan. Yến Cật nói với Văn Công: “Thiếp thân phận thấp hèn, nếu may mắn mang thai, e rằng người khác khó tin, có thể dùng cành lan làm tín vật được không?” Văn Công đồng ý. Sau này Yến Cật sinh ra Trịnh Mục Công, đặt tên là Lan.

Việc treo bức “Yến Cật Mộng Lan Đồ” thể hiện mong muốn các phi tử mang thai và sinh con, và việc trời ban con cái cũng liên quan đến đức hạnh của phi tử. Do đó, biển ngự bút của Càn Long viết là “Tán Đức Cung Vi”, có nghĩa là các hậu phi muốn có con cái thì nhất định phải tu dưỡng đức hạnh.

Yet Cat Mong Lan do
Yết Cật Mộng Lan đồ. (Ảnh: Miền công cộng)

2. Cung huấn đồ của Thừa Càn Cung: “Từ Phi Trực Gián Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Thừa Càn Cung là “Từ Phi Trực Gián Đồ”.

Theo ghi chép trong Cựu Đường Thư và nhiều sử sách khác, vào khoảng tháng 3, tháng 4 năm Trinh Quán thứ 22, Thái Tông tuần du Cung Ngọc Hoa mới xây dựng. Từ Huệ phi, người theo hầu bên cạnh ngự giá, đã viết một bản tấu sớ dâng lên Thái Tông, phân tích những tai hại của việc chinh phạt triền miên và xây dựng công trình lớn, chỉ ra rằng “Vua có đạo, lấy sự an nhàn để giúp người khác an nhàn; Vua vô đạo, lấy sự vui thú để làm vui lòng bản thân”. Đường Thái Tông đọc xong, thấy nàng nói rất đúng, liền trọng thưởng nàng.

Việc treo bức “Từ Phi Trực Gián Đồ” là để các hậu phi noi gương đức tính trung trực của Từ phi, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Đức Thành Nhu Thuận”.

3. Cung huấn đồ của Chung Túy Cung: “Hứa Hậu Phụng Án Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Chung Túy Cung là “Hứa Hậu Phụng Án Đồ”.

“Hứa Hậu” ở đây chỉ Hứa Bình Quân, vị Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân thời Tây Hán. Theo Hán Thư ghi chép, bà là con gái của Bình Ân Đái Hầu Hứa Quảng Hán, kết hôn với Lưu Tuân khi ông vẫn còn là thường dân, và sinh ra Lưu Thích, người sau này trở thành Hán Nguyên Đế. Năm 74 TCN, Lưu Tuân được tôn làm Hoàng đế, Hứa Bình Quân vào cung trở thành Tiệp Dư, không lâu sau lại được lập làm Hoàng hậu. Dù đã ở ngôi Hoàng hậu cao quý, Hứa Bình Quân vẫn đề cao sự tiết kiệm, y phục và đồ dùng hàng ngày đều rất giản dị. Bà vẫn cung kính hầu hạ Hoàng Thái Hậu, cứ 5 ngày lại tự tay dâng các món ăn đã làm, giữ trọn đức hạnh của người phụ nữ.

Việc treo bức “Hứa Hậu Phụng Án Đồ” là để các hậu phi noi gương đức tính hiếu thảo, tôn kính người lớn của Hứa hậu, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Thục Thuận Ôn Hòa”.

4. Cung huấn đồ của Vĩnh Hòa Cung: “Phàn Cơ Gián Liệp Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Vĩnh Hòa Cung là “Phàn Cơ Gián Liệp Đồ”.

Theo ghi chép trong Liệt Nữ Truyện, vào thời Xuân Thu, Sở Trang Vương rất thích săn bắn. Phu nhân Phàn Cơ đã nhiều lần khuyên can nhưng Sở Trang Vương đều bỏ ngoài tai. Để khuyên răn Trang Vương, Phàn Cơ đã từ chối ăn thịt, cuối cùng Sở Vương đã chấp nhận lời khuyên của bà, chấm dứt việc săn bắn và chuyên tâm vào chính sự. Ba năm sau, tiếng tăm vang lừng, lập nên nghiệp bá.

Việc treo bức “Phàn Cơ Gián Liệp Đồ” là để các hậu phi noi gương Phàn Cơ, hiền lành cẩn trọng, không phải chỉ biết chiều lòng quân vương, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Nghi Chiêu Thục Thận”.

5. Cung huấn đồ của Cảnh Dương Cung: “Mã Hậu Luyện Y Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Cảnh Dương Cung là “Mã Hậu Luyện Y Đồ”.

“Mã Hậu” trong cung huấn đồ này chỉ Hoàng hậu họ Mã của Hán Minh Đế. Theo ghi chép trong Hậu Hán Thư, cha bà là Mã Viện, người đã lập nhiều chiến công và được phong hầu. Bà Mã, mười tuổi đã lo liệu việc phủ hầu, trước tiên được hứa gả cho Thái tử, sau này Thái tử lên ngôi, Mã thị trở thành Hoàng hậu.

Mã thị là người hiểu lễ nghĩa, sau khi vào cung luôn đề cao sự giản dị. Váy áo bà mặc không bao giờ thêu thùa, thường xuyên mặc y phục trắng trơn, khiến ai thấy cũng phải tấm tắc khen ngợi. Bà cũng rất tự kỷ luật, thường xuyên tự kiểm điểm bản thân. Sau khi làm Hoàng hậu và Thái hậu, bà đều từ chối những tước vị, phủ đệ, vàng bạc mà Hoàng đế liên tục ban thưởng cho mình và gia tộc. Bà tại vị 23 năm, với những đức tính tốt đẹp như “hiếu học, giản dị, tự kỷ luật, khiêm nhường”.

Việc treo bức “Mã Hậu Luyện Y Đồ” là để các hậu phi noi gương đức tính tiết kiệm của Hoàng hậu Mã, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Nhu Gia Túc Tĩnh”.

6. Cung huấn đồ của Diên Hy Cung: “Tào Hậu Trọng Nông Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Diên Hy Cung là “Tào Hậu Trọng Nông Đồ”, nói về Tào Hoàng hậu của Tống Nhân Tông thời Bắc Tống. Bà là con gái của đại tướng Tào Bân thời Bắc Tống. Trước và sau cung điện nơi bà ở, bà đã tự tay trồng ngũ cốc, đích thân canh tác, và còn tự nuôi tằm dệt vải, để thể hiện sự coi trọng công việc nông nghiệp. Bà là một hiền hậu nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại.

Việc treo bức “Tào Hậu Trọng Nông Đồ” là để các hậu phi noi gương đức tính cần cù của Tào Hoàng hậu, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Thận Tán Huy Âm”.

7. Cung huấn đồ của Vĩnh Thọ Cung: “Ban Cơ Từ Liễn Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Vĩnh Thọ Cung là “Ban Cơ Từ Liễn Đồ”.

Hán Thư ghi chép rằng, Hán Thành Đế để luôn được kề cận Ban Tiệp Dư mà mình yêu mến, đã đặc biệt làm một chiếc xe liễn lớn hơn. Một ngày nọ, Thành Đế đến hậu hoa viên dạo chơi, muốn cùng Ban Tiệp Dư ngồi chung xe. Nhưng Ban Tiệp Dư đã khéo léo từ chối: “Xem những bức họa cổ truyền lại, bên cạnh quân vương hiền minh đều có những danh thần, chỉ có vua mất nước bên cạnh mới có những phi tần được sủng ái đặc biệt. Nếu hôm nay cùng ngồi xe liễn, chẳng phải giống như vua mất nước sao?” Thành Đế thấy rất đúng, bèn bỏ qua. Sau này, mẹ của Thành Đế nghe được chuyện này, vô cùng cảm khái nói với người xung quanh: “Xưa có Phàn Cơ, nay có Tiệp Dư.”

Việc treo bức “Ban Cơ Từ Liễn Đồ” là để các hậu phi noi gương đức tính hiểu lễ nghĩa của Ban Tiệp Dư, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Lệnh Nghi Thục Đức”.

8. Cung huấn đồ của Dực Khôn Cung: “Chiêu Dung Bình Thi Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Dực Khôn Cung là “Chiêu Dung Bình Thi Đồ”.

“Chiêu Dung” ở đây chỉ nữ quan, nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Thượng Quan Uyển Nhi, còn được gọi là Thượng Quan Chiêu Dung. Theo ghi chép trong Đường Thi Kỷ Sự, một ngày nọ, Đường Trung Tông du ngoạn hồ Côn Minh ở Trường An, ra lệnh dựng lầu gác lộng lẫy bên bờ hồ, đồng thời yêu cầu các quan lại đi theo đều phải làm một bài thơ. Chiêu Dung sẽ chọn một tác phẩm xuất sắc nhất để làm lời cho một khúc nhạc mới.

Sau khi các đại thần làm thơ, Thượng Quan Chiêu Dung cầm tập thơ lên lầu cao, các đại thần tụ tập dưới lầu. Chiêu Dung sẽ ném những bài thơ không được chọn xuống, các quan tự tìm lấy thơ của mình rồi cất đi. Cuối cùng, chỉ còn lại thơ của Thẩm Thuyên Kỳ và Tống Chi Vấn chưa bị ném xuống. Một lúc sau, một tờ giấy bay xuống, đó là bài thơ của Thẩm Thuyên Kỳ. Chiêu Dung cho rằng hai bài thơ ngang sức ngang tài, khó phân thắng bại, chỉ là câu cuối của bài thơ Thẩm Thuyên Kỳ đã hết ý, có vẻ yếu ớt, còn câu cuối của bài thơ Tống Chi Vấn lại có dư vị kéo dài, do đó thơ của Tống Chi Vấn nhỉnh hơn một chút.

Việc treo bức “Chiêu Dung Bình Thi Đồ” là để các hậu phi noi gương Thượng Quan Chiêu Dung, cần phải đọc nhiều sách hơn, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Ý Cung Uyển Thuận”.

9. Cung huấn đồ của Trữ Tú Cung: “Tây Lăng Giáo Tằm Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Trữ Tú Cung là “Tây Lăng Giáo Tằm Đồ”.

Theo Sử Ký ghi chép, Luy Tổ là con gái của Tây Lăng thị. Bà đã phát minh ra kỹ thuật nuôi tằm, kéo tơ dệt lụa. Sau này, Hoàng Đế, thủy tổ nhân văn của dân tộc Hoa Hạ, đã cưới bà làm vợ. Luy Tổ đã giúp Hoàng Đế hoàn thành sự nghiệp thống nhất Trung Hoa vĩ đại, sau đó bà tấu xin Hoàng Đế ban chiếu lệnh khắp thiên hạ, truyền bá kỹ thuật trồng dâu, nuôi tằm, dệt gấm khắp cả nước. Sau khi Luy Tổ qua đời, Hoàng Đế đã an táng bà tại Lạc Thôn Sơn, hậu thế tôn xưng bà là “Tiên Tằm Nương Nương”.

Việc treo bức “Tây Lăng Giáo Tằm Đồ” là để các hậu phi noi gương tài năng và đức hạnh của Luy Tổ, giúp hậu cung an định hòa thuận, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Mậu Tu Nội Trị”.

10. Cung huấn đồ của Khải Tường Cung: “Khương Hậu Thoát Trâm Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Khải Tường Cung là “Khương Hậu Thoát Trâm Đồ”.

Theo Liệt Nữ Truyện ghi chép, vào thời Tây Chu, Hoàng hậu Khương thị của Chu Tuyên Vương có tính tình hiền đức, bình thường “không phải lễ thì không nói, không phải lễ thì không động”. Có lần, Chu Tuyên Vương vì mải mê sắc đẹp mà ngủ dậy rất muộn. Khương hậu liền tháo trâm cài đầu, cởi bỏ hoa tai, đứng trong hành lang dài, đồng thời sai cung nữ đi tâu với Chu Tuyên Vương: “Vì thiếp mà khiến Đại vương thất lễ, đến triều đường muộn, xin Đại vương hãy trị tội thiếp”. Chu Tuyên Vương lại nói: “Đây là lỗi của ta, không phải tội của Hoàng hậu.” Từ đó về sau, Chu Tuyên Vương chuyên tâm vào chính sự, trùng tu lại nền nghiệp lớn mà Văn Vương, Võ Vương để lại, trở thành một vị vua trung hưng.

Việc treo bức “Khương Hậu Thoát Trâm Đồ” là để các hậu phi noi gương đạo giúp chồng của Khương hậu, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Cần Tương Nội Chính”.

11. Cung huấn đồ của Trường Xuân Cung: “Thái Tự Hối Tử Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Trường Xuân Cung là “Thái Tự Hối Tử Đồ”.

500px Taisi
Thái Tự Hối Tử đồ (Ảnh: Miền công cộng)

Thái Tự là chính phi của Chu Văn Vương, mẹ của Chu Vũ Vương. Thái Tự có dung mạo xinh đẹp, lại có đạo đức cao thượng, trong cuộc sống bà rất bình dị, và hiểu biết sâu sắc đại nghĩa. Tương truyền khi còn ở nhà mẹ đẻ, cuộc sống của bà rất giản dị, đối xử với thầy cô luôn cung kính, đối với mọi người cũng ôn hòa, nhã nhặn, nên ai cũng ca ngợi đức hạnh của bà. Sau khi gả cho Chu Văn Vương, Thái Tự nghiêm khắc dạy dỗ con cái, tôn kính bề trên, thương xót bề dưới, được Văn Vương yêu quý và thần hạ kính trọng, được mọi người tôn xưng là “Văn Mẫu”. Trong Kinh ThiLiệt Nữ Truyện đều có những lời ca ngợi Thái Tự.

Việc treo bức “Thái Tự Hối Tử Đồ” là để các hậu phi noi gương cách dạy con của Thái Tự, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Kính Hưu Nội Tắc”.

12. Cung huấn đồ của Hàm Phúc Cung: “Tiệp Dư Đương Hùng Đồ”

Bức cung huấn được treo ở Hàm Phúc Cung là “Tiệp Dư Đương Hùng Đồ”.

Jieyu Fighting against Bear by Jin Tingbiao
Tiệp Dư Đương Hùng đồ. (Ảnh: Miền công cộng)

Hán Thư ghi chép, một ngày nọ, Hán Nguyên Đế dẫn các phi tần trong hậu cung đến vòng hổ để xem biểu diễn đấu thú. Đột nhiên, con gấu trong vòng hổ thoát ra khỏi hàng rào, leo lên khán đài. Mọi người đều hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn, chỉ có Phùng Tiệp Dư đứng chắn trước mặt con gấu. Lợi dụng lúc con gấu còn đang sững sờ, các thị vệ xông lên giết chết nó.

Việc treo bức “Tiệp Dư Đương Hùng Đồ” là để các hậu phi noi gương phẩm chất dũng cảm của Phùng Tiệp Dư, do đó biển ngự bút của Càn Long viết là “Nội Chức Khâm Phụng”.

Những bức cung huấn được treo trong các lễ tiết hàng năm của cung đình nhà Thanh không chỉ mang đến cho các phi tần nhà Thanh những tấm gương cụ thể để noi theo về đức hạnh, mà còn giúp hậu thế hiểu được những phẩm chất tốt đẹp của các phi tần thời cổ đại, và đây mới chính là dòng chảy chủ lưu của cung đình cổ xưa.

Còn những bộ phim truyền hình, tiểu thuyết hiện đại phóng tác, xuyên tạc hậu cung cổ đại, chẳng qua là những suy nghĩ chủ quan dưới góc nhìn méo mó của con người thời hiện đại, thực sự đã báng bổ người xưa.

Lý Ngọc theo Aboluowang