Theo báo cáo của Cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Tám tăng 0,05% so với tháng trước. Bình quân 8 tháng năm 2025, CPI tăng 3,25% so với cùng kỳ, lạm phát cơ bản tăng 3,19%. Đáng chú ý, giá vàng tăng 1,47%, giá đô la tăng 0,36% so với tháng trước, tăng tương ứng 48,62% và 4,43% so với cùng kỳ. 

Screen Shot 2025 09 06 at 7.30.07 PM
Nguồn Cục Thống kê

Trong mức tăng 0,05% của CPI tháng Tám so với tháng trước, có 08 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng; 03 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm.

(1) Tám nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,21%, chủ yếu do các nguyên nhân sau:

Giá thuê nhà tăng 0,28% được lý giải là do nhu cầu thuê nhà tăng tại một số địa phương trong thời điểm chuẩn bị vào năm học mới, khi sinh viên và học sinh quay trở lại các thành phố lớn để học tập;

Giá điện sinh hoạt tăng 1,01% được lý giải là do thời tiết nắng nóng làm nhu cầu sử dụng điện tăng. Cục Thống kê cũng lưu ý đây là dữ liệu giá điện tháng 7, do dữ liệu giá điện sẽ được phản ánh chậm hơn 1 tháng.

Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,49% do giá gạch, cát, đá tăng cao khi nguồn cung khan hiếm, chi phí sản xuất, vận chuyển tăng trong khi nhu cầu xây dựng cao.

Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng trong tháng có giá giảm so với tháng trước: Giá gas giảm 3,86%, nguyên nhân là từ ngày 01/8/2025, giá gas trong nước điều chỉnh giảm theo giá gas thế giới; giá dầu hỏa giảm 0,86% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng.

Nhóm giáo dục tăng 0,21%, trong đó, giá dịch vụ giáo dục tăng 0,21% do một số trường đại học, trung học dân lập và mầm non tư thục tại một số địa phương điều chỉnh tăng học phí năm học 2025-2026.

Bên cạnh đó, giá sản phẩm từ giấy tăng 0,9%; bút viết các loại tăng 0,71%; văn phòng phẩm, đồ dùng học tập khác tăng 0,52%.

Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,17% do nhu cầu mua sắm chuẩn bị bước vào năm học mới tăng. Trong đó, giá vải các loại tăng 0,28%; dịch vụ may mặc tăng 0,27%; giày dép tăng 0,18%; quần áo may sẵn và dịch vụ giày, dép cùng tăng 0,16%; mũ nón tăng 0,07%.

Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,17% do nhu cầu tiêu dùng tăng trong dịp hè và chi phí sản xuất tăng, trong đó giá nước giải khát có ga tăng 0,41%; nước khoáng tăng 0,3%; rượu các loại tăng 0,2%; nước uống tăng lực đóng chai, lon, hộp tăng 0,17%; bia các loại tăng 0,12%; thuốc hút tăng 0,11%.

Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11% do chi phí sản xuất và nhân công tăng. Trong đó, giá quạt điện tăng 0,3%; đồ nhựa, cao su tăng 0,25%; bếp ga tăng 0,24%; xà phòng, chất tẩy rửa và dịch vụ sửa chữa điều hòa nhiệt độ cùng tăng 0,23%; dịch vụ sửa chữa ti vi và thuê đồ dùng trong gia đình cùng tăng 0,21%; bình nước nóng nhà tắm tăng 0,16%; đèn điện thắp sáng và giường, tủ, bàn ghế cùng tăng 0,11%; gương treo tường tăng 0,02%.

Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,11%, tăng chủ yếu ở một số mặt hàng như:

Giá đồ trang sức tăng 1,46% theo xu hướng giá vàng; sửa chữa đồng hồ đeo tay, sửa chữa đồ trang sức tăng 0,36%.

Dịch vụ về hiếu, hỷ tăng 0,18%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 0,05%; dịch vụ cắt tóc, gội đầu tăng 0,04%; dịch vụ vệ sinh môi trường tăng 0,01%.

Ngược lại, giá máy dùng điện cho chăm sóc cá nhân giảm 0,38%; túi xách, va ly, ví giảm 0,15%.

Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,08%, tập trung chủ yếu ở các nhóm: giá khách sạn, nhà khách tăng 1,79%; vé thuê chỗ chơi thể thao tăng 0,19%; dịch vụ du lịch ngoài nước tăng 0,09%; xem phim, ca nhạc tăng 0,04%.

Ở chiều ngược lại, du lịch trong nước giảm 0,15% do các công ty du lịch triển khai chương trình khuyến mại giảm giá để kích cầu tiêu dùng.

Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng nhẹ 0,03% do tỷ giá tăng làm chi phí nhập khẩu dược phẩm và các nguyên phụ liệu tăng. Trong đó, thuốc tim mạch tăng 0,23%; thuốc chống nhiễm, điều trị ký sinh trùng tăng 0,16%; thuốc giảm đau, hạ sốt chống viêm không steroid và thuốc điều trị gút và các bệnh xương tăng 0,15%; nhóm vitamin và khoáng chất tăng 0,14%; dụng cụ y tế tăng 0,11%.

(2) Ba nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:

Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,04%, trong đó, máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 0,63%; điện thoại cố định giảm 0,23%; điện thoại di động thông thường giảm 0,12%. Ngược lại, giá sửa chữa điện thoại tăng 0,6%; phụ kiện máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng tăng 0,55%.

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,06%, trong đó: Thực phẩm giảm 0,18%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,2%; lương thực tăng nhẹ 0,01%.

Cụ thể, giá thịt lợn giảm 2,42% do dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp tại một số địa phương khiến người tiêu dùng lo lắng về an toàn thực phẩm và nguồn gốc xuất xứ. Theo đó, giá mỡ động vật giảm 1,72%; nội tạng động vật giảm 1,66%; giá thịt gia súc đông lạnh giảm 0,84%; thịt chế biến giảm 0,42%. Giá quả tươi, chế biến giảm 1,51%.

Giá gạo trong nước giảm theo giá gạo xuất khẩu khi nguồn cung toàn cầu dồi dào, theo đó chỉ số giá nhóm gạo giảm 0,1% (Gạo tẻ thường giảm 0,17%; gạo tẻ ngon tăng 0,06%; gạo nếp tăng 0,41%).

Bên cạnh các mặt hàng giảm giá, một số mặt hàng thực phẩm trong tháng có giá tăng so với tháng trước: Giá thịt gia cầm tăng 0,89%; giá thủy sản tươi sống tăng 0,42%; giá thủy sản chế biến tăng 0,37%; giá trứng các loại tăng 3,22%; giá nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 1,0%; giá bánh, mứt, kẹo tăng 0,44%; chè, cà phê, ca cao tăng 0,29%; đồ gia vị tăng 0,2%; sữa, bơ, phô mai tăng 0,1%; đường, mật tăng 0,08%; giá ngô tăng 0,96%; khoai tăng 0,95%; ngũ cốc ăn liền và bột mì cùng tăng 0,32%; bánh mì tăng 0,24%; miến tăng 0,23%; bột ngô tăng 0,15%; bún, bánh phở, bánh đa tăng 0,05%.

Nhóm giao thông giảm 0,11%, trong đó, chỉ số giá dầu diesel giảm 2,06%; chỉ số giá xăng giảm 0,2% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong nước. Thêm vào đó, giá xe ô tô đã qua sử dụng giảm 0,58%; xe máy giảm 0,18% do doanh nghiệp áp dụng chương trình ưu đãi, hỗ trợ người tiêu dùng mua sắm.

Ở chiều ngược lại, một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng so với tháng trước: Giá vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 0,21%; vận tải hành khách bằng đường thủy tăng 0,08%; vận tải hành khách bằng đường bộ tăng 0,06% do nhu cầu đi lại trong dịp hè tăng. Giá nhóm phụ tùng tăng 0,17% do chi phí nhập khẩu linh kiện tăng; giá dịch vụ bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,36% do chi phí nhân công tăng.

Lạm phát cơ bản tháng Tám tăng 0,19% so với tháng trước và tăng 3,25% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân tám tháng năm 2025, lạm phát cơ bản tăng 3,19% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 3,25% của CPI bình quân chung, chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, giá dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục là các yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

Giá vàng trong nước tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 48,62% so với cùng kỳ năm trước.

Tính đến ngày 30/8/2025, bình quân giá vàng thế giới ở mức 3.418,45 USD/ounce, tăng 1,47% so với tháng trước, chủ yếu do kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cắt giảm lãi suất, đồng USD suy yếu. Bên cạnh đó, bất ổn địa chính trị, hoạt động mua vào của các Ngân hàng Trung ương và nhu cầu vàng tăng mạnh tại các thị trường châu Á cũng đã tác động vào giá vàng thế giới. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng Tám tăng 1,2% so với tháng trước; tăng 48,62% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 36,51% so với tháng 12/2024; bình quân tám tháng năm 2025 tăng 40,25% so với cùng kỳ năm trước.

Giá đô la Mỹ tăng 0,36% so với tháng trước và tăng 4,43% so với cùng kỳ năm trước

Giá đô la Mỹ trong nước biến động ngược chiều với giá thế giới. Tính đến ngày 30/8/2025, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 98,11 điểm, giảm 0,14% so với tháng trước, chủ yếu do kỳ vọng FED sẽ cắt giảm lãi suất trong tháng 9/2025 để hỗ trợ tăng trưởng. Trong nước, chỉ số giá đô la Mỹ tháng Tám tăng 0,36% so với tháng trước; tăng 4,43% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 3,67% so với tháng 12/2024; bình quân tám tháng năm 2025 tăng 3,45% so với cùng kỳ năm trước.

Nguyên Hương (t/h)