Năng suất lao động Việt Nam còn thấp trong khu vực, chỉ bằng 7% Singapore
- Thanh Thuỷ
- •
Tính theo giá so sánh năm 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng 7,2% của Singapore; 18,4% của Malaysia; 36,2% của Thái Lan; 43% của Indonesia và bằng 55% của Philippines.
Theo kết quả điều tra lao động việc làm của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động (NSLĐ) của toàn nền kinh tế Việt Nam theo giá hiện hành năm 2018 ước đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD), tăng 8,8 triệu đồng/lao động so với năm 2017 (tương đương 346 USD); tăng 5,93% so với năm trước.
Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao. Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực.
Cụ thể, tính theo giá so sánh năm 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng 7,2% của Singapore; 18,4% của Malaysia; 36,2% của Thái Lan; 43% của Indonesia và bằng 55% của Philippines. Đáng chú ý là, chênh lệch về mức NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, số giờ làm việc trung bình mỗi tuần của một lao động đang làm việc ở Việt Nam đã giảm dần từ 45,6 giờ trong năm 2011 xuống 45,3 giờ năm 2018.
NSLĐ trên mỗi giờ làm việc của Việt Nam năm 2018 theo giá hiện hành đạt 43.400 đồng, cao hơn 3.500 đồng so với năm 2017.
Tính theo giá so sánh năm 2011, NSLĐ mỗi giờ làm việc của Việt Nam đạt khá thấp so với một số nước trong khu vực ASEAN, năm 2015 chỉ đạt 4,4 USD, trong khi đó Malaysia đạt 24,9 USD; Thái Lan đạt 12,1 USD; Indonesia đạt 12 USD; Philippines đạt 8,4 USD.
Riêng Singapore đạt mức NSLĐ theo giờ rất cao với 54,9 USD nhưng do số giờ làm việc trung bình mỗi tuần của một lao động ở Singapore cao hơn ở Việt Nam nên khoảng cách giữa năng suất tính theo mỗi giờ làm việc giữa Singapore và Việt Nam (12,5 lần) đã giảm so với khoảng cách 13,7 lần khi tính theo năng suất trên mỗi lao động.
“Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước”, Tổng cục Thống kê nhận định.
Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy những đánh giá tương tự.
Trao đổi về vấn đề NSLĐ của Việt Nam thấp, ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, chỉ ra một số nguyên nhân.
Thứ nhất, quy mô nền kinh tế Việt Nam còn nhỏ. Với xuất phát điểm thấp, quy mô kinh tế nhỏ, việc thu hẹp khoảng cách tương đối về thu nhập bình quân và NSLĐ của Việt Nam với các nước trong thời gian qua là một thành tựu đáng ghi nhận nhưng chưa đủ để thu hẹp khoảng cách tuyệt đối về giá trị NSLĐ so với các nước trong khu vực.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế của Việt Nam chưa hợp lý, đặc biệt là cơ cấu lao động. Hiện nay, lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản còn trên 20 triệu người, chiếm tỷ lệ khá lớn. Trong khi lao động ở khu vực này phần lớn là lao động giản đơn, có tính chất mùa vụ và giá trị gia tăng tạo ra rất thấp.
Theo ông Lâm, trong những năm gần đây, chuyển đổi cơ cấu lao động diễn ra rất nhanh. Tuy nhiên, lao động nông nghiệp chuyển sang khu vực công nghiệp và dịch vụ thường làm ở những ngành có giá trị gia tăng, trình độ công nghệ thấp nên NSLĐ vẫn chưa thể cải thiện đáng kể.
Thứ ba, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu. Trình độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo còn thấp, nhiều doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, tụt hậu 2-3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới.
Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp (chiếm 21.9%), cơ cấu đào tạo thiếu hợp lý, thiếu hụt lao động có tay nghề cao, khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động còn lớn.
Cả nước hiện có tới 42,4 triệu lao động (chiếm 78,1% tổng số lao động) chưa được đào tạo để đạt trình độ chuyên môn kỹ thuật nào đó.
Bên cạnh đó, tình trạng thất nghiệp ở nhóm lao động trẻ hoặc không phù hợp giữa công việc và trình độ đào tạo còn khá phổ biến. Một bộ phận lớn người lao động chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp, người lao động thiếu các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến.
Thứ năm, trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều bất cập. Năng lực quản lý, quản trị doanh nghiệp còn hạn chế, còn một số “điểm nghẽn” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính. Tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) cho tăng trưởng GDP của Việt Nam thời gian qua còn ở mức thấp, giai đoạn 2001-2010 chỉ đạt 4,3%.
Thứ sáu, có những “rào cản” từ thể chế. Thể chế kinh tế thị trường còn thiếu đồng bộ, đặc biệt là thị trường lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản. Do xuất phát điểm thấp và đang trong giai đoạn chuyển đổi, việc phát triển những thị trường có thể chế đặc thù trên gặp nhiều khó khăn, hệ thống pháp luật, chính sách cho việc phát triển các loại thị trường chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, chất lượng chưa cao và chưa theo kịp sự phát triển của các loại thị trường này.
Ngày 7/8, Thủ tướng Chính phủ sẽ chủ trì một hội nghị quan trọng liên quan đến “Cải thiện năng suất lao động quốc gia”.
Thanh Thuỷ (t/h)
Xem thêm:
Từ khóa Năng suất lao động của Việt Nam