Trong hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn không chỉ có những danh tướng tài năng, mà có cả những người phụ nữ đóng vai trò rất lớn.

Tìm nguồn tiếp tế lương thực

Đầu năm 1418, khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra. Rút kinh nghiệm khi đối phó với các cuộc khởi nghĩa khác, quân Minh quyết định tấn công tiêu diệt nghĩa quân Lam Sơn ngay từ trong trứng nước, không cho phát triển mạnh lên.

Nghĩa quân Lam Sơn khi đó đa phần chưa bao giờ đánh trận nên còn rất yếu. Lê Lợi nhiều lần cho quân rút đến vùng rừng núi Chí Linh, tận dụng địa thế hiểm trở để bảo toàn lực lượng. Những lần như thế, bà Phạm Thị Ngọc Trần là vợ của Lê Lợi cũng đi theo chồng, sát cánh cùng nghĩa quân những lúc khó khăn.

Khi quân Minh chặn được tiếp lương của dân chúng cho nghĩa quân, bà Trần lặn lội tìm cách tiếp ứng lương thực. Như lần nghĩa quân bị vây lâu ngày ở núi Chí Linh, lương đã cạn, bà Trần vượt qua vòng kiểm soát của quân Minh, đến phường đánh cá Đa Mỹ nhờ dùng thuyền chở lương ngược dòng sông Chu để tiếp tế cho nghĩa quân. Nhờ đó mà nghĩa quân qua được gian đoạn gian khó thuở đầu.

pham thi ngoc tran
Toàn cảnh Đền thờ Phạm Thị Ngọc Trần ở thôn Thượng Vôi, xã Xuân Hoà, Thanh Hóa. (Ảnh: Trang thông tin điện tử tổng hợp huyện Thọ Xuân)

Người giúp nghĩa quân Lam Sơn hùng mạnh

Năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn quyết định tiến vào phía nam, nhằm có chỗ đứng chân vững vàng ở Nghệ An. Nghĩa quân liền phao tin chuẩn bị tiến ra bắc. Trong khi quân Minh phía bắc lo chuẩn bị đối phó với cuộc tiến quân, thì nghĩa quân bất ngờ tiến vào phía nam. Năm 1425, nghĩa quân đánh chiếm được Nghệ An, tướng quân Bùi Bị phát hiện ra trang trại lớn của mẹ con bà Trần Thị Ngọc Hào.

Bà Ngọc Hào vốn là Phi tần của vua Trần Duệ Tông. Sau khi vua Duệ Tông tử trận ở Kinh thành nước Chiêm, bà Ngọc Hào rất đau buồn và vẫn ở Kinh thành. Tháng 1/1395, Thượng Hoàng Nghệ Tông mất, tình hình trong Triều Trần luôn bất ổn. Nhận thấy tai họa có thể đến bất cứ lúc nào, bà Ngọc Hào liền bàn với 2 anh trai là Trần Đạt và Trần Duy, rồi cùng con gái là công chúa Huy Chân và gia tộc tất cả 572 người âm thầm rời khỏi Kinh thành đến phủ Đức Quang, lộ Nghệ An. Bà huy động gia nhân cùng 3.000 dân khai phá 3.965 mẫu đất thành ruộng lúa phì nhiêu, hình thành khu dân cư mới, trai tráng cũng rèn luyện vũ khí bảo vệ xóm làng.

Có trại lúa rộng lớn nhưng bà Ngọc Hào lại tìm cách che giấu thân phận của mình cùng trại lúa nhằm bảo vệ gia đình.

Tướng quân Bùi Bị tìm ra trại lúa lớn đã mời bà Ngọc Hao ra mắt chủ tướng Lê Lợi. Bà quyết định cung ấp toàn bộ lương thực cho nghĩa quân, đồng thời trai tráng đã được tập luyện để giữ ấp cũng được đồng ý gia nhập nghĩa quân. Bà Ngọc Hào còn gả luôn công chúa Huy Chân cho chủ tướng Lê Lợi.

Có được hậu phương vững chắc với lương thực dồi dào, sau 1 năm ở Nghệ An, nghĩa quân Lam Sơn đã rất mạnh. Năm 1426, nghĩa quân chia quân tấn công ra bắc, đánh đâu thắng đấy, đánh bại và tiêu diệt cả viện binh mà quân Minh đưa sang, giành lại quyền tự chủ cho dân tộc.

Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi Vua, lập ra nhà Lê. Bà Ngọc Hào được gọi với tên cao quý là Hoàng hậu Bạch Ngọc. Lê Lợi ban thưởng cho các tướng sĩ theo mình, trong đó có cả bà Ngọc Hào, nhưng bà từ chối mọi phần thưởng, trở về quê nhà chọn đến chùa Am làm nơi tu hành. Bà sống đến tận đời vua Lê Thánh Tông, thọ trên 100 tuổi.

Giúp nghĩa quân đánh thành

Ở làng Ngọc Chuế (Chuế Cầu), huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định có vợ chồng Đinh Tuấn và Lương Thị Huệ, gia đình ở ngay nơi giao thông thủy bộ, gặp gỡ của nhiều tuyến đường. Quân Minh nhận thấy vị trí quan trọng nơi đây liền xây thành Cổ Lộng gần bên nhà vợ chồng Đinh Tuấn.

Sống dưới sự áp bức của quân Minh, Đinh Tuấn đầu quân cho nghĩa quân Lam Sơn, còn Lương Thị Huệ mở quán phía ngoài thành Cổ Lộng.

Khi nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra bắc, bị quân Minh chặn lại ở thành Cổ Lộng, Đinh Tuấn trở về nhà gặp vợ bàn việc đánh thành. Lương Thị Huệ tìm các cô gái giỏi múa hát vào thành biểu diễn cho quân Minh, từ đó mà nắm vững cách bố phòng trong thành rồi báo lại cho chồng. Nhờ đó nghĩa quân Lam Sơn dễ dàng đánh thắng trận Cổ Lộng, mở đường ra bắc.

Sau khi đánh đuổi quân Minh về nước, luận công ban thưởng, cả hai vợ chồng đều được ban tước “Công”. Sau khi hai vợ chồng mất được dân chúng lập đền thờ và phong làm “Kiến quốc đại vương”“Kiến quốc phu nhân”.

Năm 1470, vua Lê Thánh Tông từ Kinh thành về Lam Sơn quê tổ, đi ngang qua thành Cổ Lộng khi xưa, nghe lại sự tích đánh thành Cổ Lộng thì cảm động trước công lao của vợ chồng Đinh Tuấn và Lương Thi Huệ, liền làm một bà thơ tên “Minh”. Bài thơ này được đặt trong đền thờ hai vợ chồng:

Giỏi thay nàng liệt phụ
Khí hùng hơn muôn binh
Giặc Minh sang xâm chiếm
Đóng giữ Cổ Lộng thành
Hoàng tổ ta khởi nghĩa
Quyết chí diệt giặc Minh
Ngựa sắt hăng hái đánh
Thắt túi giúp công thành
Sử quan cầm bút chép
Cùng Bà Trưng lưu danh
Đền thờ hương khói ngát
Nghìn thuở mãi nghe danh.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: