Cao Bá Quát và cuộc khởi nghĩa “Giặc châu chấu”
- Trần Hưng
- •
Cao Bá Quát là văn sĩ có tiếng thời nhà Nguyễn, tài văn thơ của ông nổi tiếng đến nỗi dân chúng gọi ông là “Thánh Quát”. Tuy nhiên với bản tính ngông nghênh ông bị các quan trường thi ghét nên thi lần nào cũng bị rớt, được giới thiệu làm quan nhưng cuối cùng cũng bị đuổi đi dạy học. Chứng kiến quan lại Triều đình bất lực trong đợt hạn hán và dịch châu chấu, ông quyết định cùng các văn sĩ và dân chúng khởi nghĩa.
Không thể thi đỗ
Cao Bá Quát sinh năm 1809 thời vua Gia Long ở khu Đình Ngang, phía nam thành Thăng Long, nhưng quê gốc ở làng Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội).
Ông sinh ra trong gia đình có truyền thống làm nghề thuốc và khoa bảng, ông nội Cao Danh Thự là bậc danh y nổi tiếng trong vùng. Gia đình có người theo khoa bảng như Binh Bộ thượng thư Cao Dương Trạc (đời Lê Trung Hưng), Tư nghiệp Quốc Tử Giám Cao Huy Diệu (thời vua Gia Long).
Cha Cao Bá Quát là Cao Tửu Chiếu, một thầy đồ nghèo. Dù gia cảnh nghèo khó, nhưng từ bé Cao Bá Quát có tiếng là đứa trẻ thông minh lại chăm chỉ, văn hay chữ tốt.
Năm 1821, Cao Bá Quát mới 13 tuổi đã vượt qua kỳ thi khảo hạch và tham dự kỳ thi Hương, nhưng do còn quá nhỏ nên không đỗ.
Năm 1831 thời vua Minh Mạng, ông dự thi Hương ở trường thi Hà Nội và đỗ Á nguyên tức cao thứ hai. Tuy nhiên khi duyệt quyển biết người đỗ Á nguyên là Cao Bá Quát thì bộ Lễ kiếm cớ để ông đỗ cuối cùng trong 20 người thi đỗ.
Về lý do ông bị chấm đỗ cuối cùng, nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ giải thích rằng: “Ông viết quyển thi bằng bốn kiểu chữ: chân, thảo, triện, lệ. Ngoài ra, văn ông có khí phách hiên ngang. Bởi vậy, mà các khảo quan đâm ra ghét và tìm cách đánh hỏng”.
Có lẽ vì cái tính ngông nghênh nên sau đó nhiều lần ông dự kỳ thi Hội nhưng đều không đỗ, nhưng văn thơ của ông thì không ai không biết. Năm 1841 thời vua Thiệu Trị, các quan tỉnh Bắc Ninh liền tiến cử ông với Triều đình. Ông được vào Huế để nhận một chức tập sự ở bộ Lễ.
Sửa bài thi giúp sĩ tử
Cũng năm 1841, Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường thi ở Thừa Thiên. Khi chấm thi ông thấy có một số bài văn hay nhưng phạm húy, ông vẫn phê đậu, nhưng nghĩ khi bài đến tay người khác chấm lại cũng sẽ bị phê rớt. Ngẫm lại thấy mình dù được người đời khen nhưng thi cử chẳng bao giờ đỗ, không muốn chỉ vì lỗi nhỏ mà đánh trượt mất người có tài, ông liền tìm cách sửa lại các bài thi.
Nhưng sự việc bị phát hiện, án được dâng lên Vua. Sau khi xem xét Vua đồng ý với bản án tử. Sau đó Vua nhận thấy Cao Bá Quát làm việc này không có ý đồ làm lợi gì cho riêng mình hay chủ ý giúp đỡ cho ai đó, mà là vì không muốn những sĩ tử có tài vì lỗi nhỏ mà bị trượt, đất nước mất đi nhân tài. Vậy là Vua quyết định xóa án tử, nhưng phạt Cao Bá Quát làm phục dịch 3 năm cho các tàu đi công cán nước ngoài.
Làm quan không được trọng dụng
Hết thời gian thụ án, Cao Bá Quát tiếp tục làm cho bộ Lễ, nhưng chẳng bao lâu ông bị thải về quê. Ở quê nhà ông dạy học và thường giao du với các danh sĩ như Nguyễn Văn Siêu, Trần Văn Vi, Diệp xuân Huyên…Vì văn thơ của ông hay nổi tiếng nên người thời đó gọi ông là “Thánh Quát”.
Năm 1847, ông lại được gọi đến Huế làm việc, nhưng công việc hay thay đổi, ông không được trọng dụng. Thời gian này Cao Bá Quát thường kết giao với các văn nhân, Hoàng thân giỏi thơ văn là Nguyễn Phúc Miên Thẩm, Nguyễn Phúc Miên Trinh, và gia nhập nhóm “Mạc Vân Thi xã” do hai vị Hoàng thân này sáng lập.
Do không đươc lòng các quan trong Triều, năm 1850 Cao Bá Quát bị cho đi làm Giáo thụ dạy học ở Sơn tây.
Cùng dân khởi nghĩa
Năm 1853, Cao Bá Quát xin thôi dạy học về quê nhà chăm sóc mẹ già. Năm 1854 thì Sơn Tây gặp hạn hán nặng, lại thêm nạn châu chấu khiến mùa màng mất trắng, dân chúng đói khổ. Cao Bá Quát dù thương dân nhưng cũng không biết phải làm gì chỉ trong chờ vào quan lại, nhưng đám quan địa phương lại bất tài vô dụng.
Dân chúng chết đói nhiều, những người sống sót cũng phải ăn xin kiếm sống. Thảm cảnh này được dân chúng ghi nhớ thành bài vè như sau:
Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày
Ngồi xó chợ lùm cây
Quạ kêu vang bốn phía
Xác đầy nghĩa địa
Thây thối bên cầu
Trời ảm đạm u sầu
Cảnh hoang tàn đói rét
Dân nghèo cùng kiệt
Kẻ lưu lạc tha phương
Người chết chợ chết đường…
…Là cái thời Tự Đức.
Bế tắc, Cao Bá Quát liền liên hệ với các sĩ phu, thổ hào địa phương quyết định cùng dân chúng nổi dậy. Thấy một số người còn tưởng nhớ nhà Lê, ông cùng mọi người tìm được một người mang họ Lê là Lê Duy Cự tôn làm minh chủ, còn Cao Bá Quát làm quốc sư.
Việc khởi nghĩa đang chuẩn bị thì bị bại lộ, vua Tự Đức vội vàng tập trung quân cùng pháo thần cơ tiến đánh dẹp cuộc khổi nghĩa. Sự việc quá khẩn cấp, các nơi chưa kịp chiêu mộ nghĩa quân, chỉ có duy nhất ở huyện Mỹ Lương, tỉnh Sơn Tây do Cao Bá Quát trực tiếp chỉ huy là chuẩn bị kịp.
Không thể ngồi yên để quân Triều đình tiến đến, Cao Bá Quát quyết định cho quân của mình tấn công ngay vào cuối năm 1854. Sử nhà Nguyễn gọi cuộc khởi nghĩa này là “giặc châu chấu”, còn dân gian gọi là khởi nghĩa Mỹ Lương.
Tháng 11 năm 1854 âm lịch, Cao Bá Quát cùng các thổ mục địa phương cùng vài nghìn quân tiến đánh phủ Ứng Hòa và chiếm được Phủ này, rồi tiến đánh chiếm được huyện Thanh Oai.
Đến tháng 12, quân khởi nghĩa do Đô thống Nguyễn Văn Tuân chỉ huy từ Thanh Oai tiến đánh Hà Nội. Quân Triều đình liền đón đánh ở xã Đồng Dương và Thạch Bích (nay là Đồng Mai Hà Đông và Bích Hòa đều thuộc huyện Thanh Oai).
Cuộc chiến ban đầu diễn ra rất ác liệt, nhưng về sau quân khởi nghĩa do trang bị vũ khí kém hơn và ít kinh nghiệm nên dần bị đánh tan. Nguyễn Văn Tuân và các thủ lĩnh khác bị bắt.
Các cuộc tiến quân của quân khởi nghĩa ở nơi khác cũng bị quân Triều đình đánh chặn lại. Quân khởi nghĩa phải rút đến huyện Phúc Thọ thuộc Sơn Tây. Quân Triều đình truy đuổi, Cao Bá Quát cho quân vượt sông Hồng đến phủ Vĩnh Tường (thời đấy thuộc Sơn Tây, nay thuộc Vĩnh Phúc).
Sau khi ổn định lại, Cao Bá Quát tiến đánh thành Tam Dương (năm ở xã Tích Sơn). Trận đánh này làm nghĩa quân bị giảm sút nhiều, phải rút về căn cứ Mỹ Lương, chấn chỉnh và bổ sung thêm quân.
Lúc này quân Triều đình được cử đánh dẹp quân khởi nghĩa đến và mang theo dụ của vua Tự Đức: “Không kể quan, quân, dân, dõng hoặc người theo bọn giặc; người nào bắt sống được Cao Bá Quát đem giải quan thì thưởng cho 500 lạng bạc, giết chết thì thưởng 300 lạng, lại còn thưởng thụ chức hàm để khuyến khích.” (Đại Nam thực lực)
Sau khi bổ sung thêm quân chủ yếu là người Mường và người Thái ở vùng núi Mỹ Lương, Cao Bá Quát cho tướng Nguyễn Khắc Quyết đưa quân tiến đánh huyện Yên Sơn lần thứ hai, cuộc chiến giữa quân khởi nghĩa và quân Triều đình rất ác liệt.
Cao Bá Quát hay tin quân Triều đình rất đông, lại mang cả pháo thần cơ nên rất lo lắng, liền quyết định lên ngựa đưa thêm quân đến cứu viện. Các tướng sĩ có người khuyên can: “Quốc sư đi chuyến này e trúng kế điệu hổ ly sơn của giặc. Xin quốc sư tính lại để lo chuyện về sau”.
Tuy nhiên Cao Bá Quát không thể bỏ mặc quân sĩ, ông cưỡi ngựa đem quân tiếp ứng. Viên suất đội triều đình là Đinh Thế Quang được tin mật báo liền đưa quân đến phục sẵn trên đường, mang theo cả pháo thần cơ.
Cao Bá Quát đến thì Đinh Thế Quang cho pháo thần cơ bắn dồn dập khiến Cao Bá Quát trúng đạn tử trận. Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương kéo dài đến năm 1856 cũng tan.
Dù thất bại nhưng dân gian vẫn ca ngợi Cao Bá Quát, những câu chuyện về ông vẫn được dân gian lưu truyền về sau.
Trần Hưng
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ khóa nhà Nguyễn lịch sử Việt Nam Danh nhân lịch sử
