Cái chết và câu chuyện của Ngũ tổ Thiền Tông
“Sinh, lão, bệnh, tử” là quy luật của sinh mệnh con người. So với “lão, bệnh” thì “sinh” và “tử” có lẽ vẫn là điều vô cùng thần bí mà con người luôn muốn tìm hiểu.
Xưa nay người ta vẫn luôn hoài nghi rằng chết có thực sự là sự kết thúc vĩnh viễn của một sinh mệnh? Có luân hồi chuyển kiếp hay không? Ý nghĩa của luân hồi chuyển kiếp là gì? Khi sinh mệnh kết thúc, linh hồn hay nguyên thần của một người sẽ rời khỏi thân thể, và sẽ một lần nữa xuất hiện ở một sinh mệnh khác, quá trình này được gọi là luân hồi. Nghiệp lực là nguyên nhân sinh ra luân hồi, và mỗi một lần luân hồi cũng đều là vì cân bằng đức và nghiệp lực. Trong quá trình chuyển thế hết lần này đến lần khác, sinh mệnh sẽ không ngừng hoàn thiện mình. Nếu như một sinh mệnh trong quá trình này không ngừng hoàn trả nghiệp lực và tích đức thì sinh mệnh ấy sẽ trở nên càng ngày càng thuần khiết và tốt đẹp hơn. Khi sinh mệnh có thể đồng hoá với đặc tính của vũ trụ thì sẽ có thể thăng lên trên.
Nhan Chi Thôi, nhà văn, nhà soạn nhạc ủng hộ Phật giáo cho rằng, bởi vì trí nhớ của con người bị niêm phong lại nên đại đa số người ta không nhớ được kiếp trước của mình, cũng không cách nào biết được tương lai của bản thân mình. Vậy, rốt cuộc con người có luân hồi chuyển kiếp hay không? Hãy cùng tìm câu trả lời qua câu chuyện của Ngũ tổ Thiền Tông được kể lại trong “Hoằng Nhẫn tái lai đồ” của vị sư, họa sĩ thời nhà Nguyên – Nhân Đà La.
Hoằng Nhẫn là Thiền sư nổi tiếng ở Trung Quốc, là vị tổ thứ năm của phái Thiền Tông. Ông là người huyện Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc.
Có câu chuyện ghi chép về ông, kể rằng: Hoằng Nhẫn vốn là người tu đạo tên là Tài Tùng ở trên ngọn núi Phá Đầu. Sinh thời, ông từng có lần hỏi Tứ tổ Đạo sư Đại Tín: “Tôi cả đời này không còn mưu cầu điều gì hết, chỉ một lòng hướng Phật. Nhưng tôi lại không biết đại đạo của Phật thiền. Ngài có thể thuyết giảng cho tôi nghe được không?”
Tứ tổ Đạo Tín nói: “Ta thấy tuổi của ông cũng đã già rồi, cho dù có thể nghe Đạo, chỉ e ông cũng không có đủ thời gian mà phổ rộng nó với chúng sinh, thế thì có ích gì đâu. Nếu kiếp sau, ông đầu thai đến đây thì ta có thể chờ ông.”
Thiền sư Tài Tùng nghe xong lời này liền hạ quyết tâm muốn được nghe Tứ tổ giảng Đạo. Lúc ông đi đến bờ sông, nhìn thấy một cô gái đang giặt quần áo, ông liền vái chào và hỏi: “Không biết thí chủ có thể cho tôi tá túc ở nhà thí chủ được không?”
Cô gái nói: “Việc này ngài phải hỏi cha và anh cả của tôi mới được!”
Vị thiền sư nói: “Ta cần thí chủ đồng ý trước rồi mới đi hỏi họ được!” Cô gái liền đồng ý với đề nghị của vị thiền sư. Thiền sư vô cùng mừng rỡ và đi về phía núi Phá Đầu.
Mấy tháng sau, cô gái bỗng nhiên có thai. Cha mẹ cô gái vô cùng hổ thẹn với làng xóm, ra sức tra hỏi cô xem chuyện gì đã xảy ra. Cô gái không nói được rõ ràng sự tình nên bị cha mẹ đuổi ra khỏi nhà. Bởi vì không còn nhờ cậy được vào ai, cô gái đành làm việc dệt vải và một số việc vặt cho những người đồng hương để kiếm sống.
Về sau, cô gái sinh hạ được một bé trai. Đứa trẻ này vô cùng kỳ lạ, khác hẳn với những đứa trẻ khác, vì vậy cô gái đem đứa bé vứt bỏ xuống một con mương. Ngày hôm sau, cô gái nghĩ lại thấy vô cùng lo lắng, sốt ruột nên lại ra mương xem xét. Không ngờ, đứa bé ấy không những không bị chết đuối mà toàn thân còn không bị ướt, đáng yêu vô cùng. Cô gái kinh hãi liền ôm lấy đứa trẻ và từ đó dốc lòng nuôi dưỡng.
Thời gian trôi qua, khi đứa trẻ lớn hơn một chút thì hai mẹ con liền đi ăn xin để kiếm sống qua ngày. Hàng xóm láng giếng đều gọi cậu bé là đứa trẻ không có họ. Về sau, hai mẹ con họ gặp một vị trưởng giả có học vấn uyên thâm. Vị trưởng giả thấy dáng dấp khác người của cậu bé thì kinh hãi nói: “Đứa trẻ này chỉ còn thiếu bảy loại tướng trong ba hai tướng Như Lai, cho nên không bằng được Như Lai. Nhưng nếu so với người thường thì thật hơn không biết đến mấy ngàn lần!”
Một hôm, Tứ tổ Đạo Tín có việc đi qua huyện Hoàng Mai, trên đường gặp cậu bé này. Ông thấy cậu bé có tướng cốt xuất sắc hiếm thấy, không giống những đứa trẻ bình thường khác, liền hỏi: “Này cậu bé! Cậu họ gì?”
Cậu bé trả lời: “Họ thì có, nhưng không phải họ bình thường!”
Đại sư Đạo Tín hỏi lại: “Là họ gì?”
Cậu bé lớn tiếng trả lời: “Phật Tính!”
Đại sư Đạo Tín vô cùng kinh ngạc, thầm khen ngợi: “Đứa trẻ này thật là thông minh, nhanh nhẹn, giỏi biện luận. Đứa trẻ không nói ra họ của mình, chắc chắn là có nỗi khổ gì đó”. Thế là, ông lại hỏi cậu bé: “Chẳng lẽ, cậu không có họ sao?”
Cậu bé vẫn ung dung đối đáp: “Họ vốn cũng chỉ là thứ hư ảo, không có ý nghĩa gì thực sự cả. Cho nên, tôi không có.”
Lúc này, đại sư Đạo Tín cho rằng cậu bé này là người có căn cơ tu Phật, có thể phổ truyền Phật Đạo. Thế là ông liền cử người đến nhà cậu bé, thỉnh cầu mẹ của cậu bé chấp thuận cho con trai được xuất gia tu hành.
Mẹ của cậu bé sớm đã hiểu rõ được ngọn nguồn về sự ra đời của con trai mình nên lập tức đồng ý, không một chút do dự. Bà còn nói với cậu bé rằng: “Con vốn chính là đệ tử của Phật, bây giờ con nên đi theo Sư phụ của mình thôi.”
Cậu bé từ ấy theo đại sư Đạo Tín tu hành và sau này trở thành Ngũ tổ của Thiền Tông, lấy pháp danh là Hoằng Nhẫn.
An Hòa (dịch và t/h theo sự đồng ý của tác giả)
Xem thêm:
Từ khóa Phật giáo Thiền tông luân hồi