Bắc Hà gió bụi

Đời Lê Quý, quân Tam Phủ giết Huy Quận Hoàng Đình Bảo để thành tựu việc phế lập ngôi chúa. Việc xong, quân ấy được Đoan Nam Vương Trịnh Khải trọng thưởng. Từ đấy, quân Tam Phủ cậy có công phù lập nên ngày một lộng quyền.

Tướng tâm phúc của Huy Quận là Nguyễn Hữu Chỉnh tức cống Chỉnh, đương làm Phó tướng ở Nghệ An, sợ phải vạ lây nên mật bàn với Trấn Thủ Võ Tá Giao tự cường một cõi. Giao sợ không dám làm. Chỉnh liền đem gia quyến vượt bể vào Nam theo vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc.

Có người cho chuyến đi này của Chỉnh là nguyên nhân cơn khói lửa đưa đến việc diệt Trịnh, vong Lê. Nhưng xét kỹ thì việc Chỉnh vào Nam chỉ có thể làm sớm cuộc Bắc chinh của vua Tây Sơn lên ít ngày tháng mà thôi. Nhà Tây Sơn và nhà Lê – hay nói cho đúng, nhà Trịnh – hai nhà tất phải một mất, một còn, chỉ có chóng hay chậm.

Muốn rửa mối thù Huy Quận, Chỉnh xui vua Tây Sơn lấy Thuận Hóa.

Vua Tây Sơn nghe lời, sai em là Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ làm Tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm làm Tả Quân Đô Đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu Quân Đô Đốc, đem quân thủy bộ lên đường.

Phó tướng Thuận Hóa là Hoàng Đình Thể cùng hai con và tì tướng là Vũ Tá Kiên tử trận ở trước cửa thành. Trấn tướng là Phạm Ngô Cầu ra hàng. Bắc Bình Vương ghét Cầu phản phúc, ti tiện, bắt giải về Quy Nhơn, chém đầu răn chúng. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ý muốn giữ lũy Trường Dục trở về Nam, nhưng Chỉnh cố xin trường khu đại tiến. Bắc Bình Vương nghe lời, cho Chỉnh đốc thủy quân, còn mình đem bộ binh đi sau.

Tin mất Thuận Hóa về đến Thăng Long, Đoan Nam Vương sai Trịnh Tư Quyền đem 27 cơ binh vào giữ Nghệ An. Quyền thu xếp hơn 10 ngày mới lên đường. Chưa đi được 30 dặm có tin báo quân Tây Sơn đã chiếm Vị Hoàng. Quyền đem quân xuống giữ mặt Kim Động. Trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Diễn đồn binh ở xã Phù Sa, thuộc huyện Đông An. Đinh Tích Nhưỡng giữ cửa Lục thuộc sông Luộc, tỉnh Hưng Yên. Bắc Bình Vương tiến đánh. Nhưỡng thua chạy, Diễn và Quyền cũng tan vỡ cả ba quân.

Chàng đi theo nước

Thủy quân Tây Sơn đến sông Thúy Ái thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, lại gặp thủy quân Bắc Hà nghênh chiến. Trận này có tướng coi đạo quân “Tiền Trạch” là Ngô Cảnh Hoàn rất dũng cảm. Mặc dầu một số đông thủy quân đã kẻ chết người chạy, Hoàn vẫn hăng hái chống đánh. Nhưng một gáo nước tưới sao tắt cả một xe củi cháy, nên thế cùng lực tận, ông tử trận ở khúc sông ấy.

Thiếp theo chồng

Người nhà ông Ngô Cảnh Hoàn được tin ai cũng thương khóc. Duy có vợ lẽ ông là Phan Thị Thuấn, người phủ Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, vẫn cười nói như thường, và nhất định không thay tang phục. Có người hỏi thì bà đáp: “Chết vì nước còn gì hơn mà phải thương tiếc.” Ma chay xong, bà mặc đồ đỏ đến chỗ chồng chết trận khóc tế, rồi đâm đầu xuống sông tự tử.

Tiếng thơm muôn thuở

Bà Phan Thị Thuấn chẳng những là một liệt phụ, lại còn là một kỳ nữ ít người sánh kịp.

Đem cái chết để đền nợ nước, để trả nghĩa chồng, từ ngàn xưa không phải là không có; nhưng cười trước cái chết để cái chết sống lại ngàn thu, thực chửa thấy trong đám quần thoa.

Đức Dực Tôn có thơ vịnh bà như sau:

Trượng phu tử sự diệc hà vi!
Nhược chất hùng tâm dị vị khuy
Giang thượng thung dung thân khốc liễu,
Khiết thân dĩ định trạc liên y.

Xin tạm diễn ra quốc âm:

Trượng phu vì nước thác là vinh,
Phận gái ai ngờ dạ sắt đinh.
Đủng đỉnh trên sông sa giọt lệ,
Dòng trong quyết gửi tấm thân trinh.

Ngay thời bấy giờ, ông Huấn Đạo Hà Sách Hiển đã có thơ vịnh bà, lời lẽ rất bi tráng:

Tòng nhất nhi chung nghĩa bạc vân,
Cổ kim liệt phụ hữu thùy luân.
Nhị Hà phong trích cương thường lệ,
Thúy Ái ba đào tiết nghĩa thân.
Kích trọc nhất thời giang hữu sắc,
Lưu thanh thiên cổ thủy vô trần.
Khả lân lam bách dư niên quốc!
Thiên lý dân di phụ nhất nhân.

Xin tạm diễn ra quốc âm:

Mảnh gương tòng nhất chói mây xanh,
Đọ tiết xưa rầy thấy vắng tanh.
Giáo thét Nhị Hà dòng lệ nghĩa,
Sóng cồn Thúy Ái tấm thân trinh.
Một phen nước dẫu pha màu đục,
Nghìn kiếp sông còn rạng vẻ thanh.
Ngán nỗi mấy đời cơ nghiệp ấy!
Riêng bà kỳ liệt đáng lưu danh.

Ông Dương Bá Trạc, mới qua đời mấy năm nay, có thơ vịnh bà, lời ý rất cảm động:

Chàng đi theo nước, thiếp theo chồng:
Thiếp chết trinh mà chàng chết trung,
Đến thế ân tình đôi trọn vẹn.
Việc chi cười nói chẳng thung dung.
Ma chay đã đủ trên trần thế,
Đào đỏ thôi về dưới thủy cung.
Giã họ, giã hàng, giã thôn xóm,
Cương thường để lại với non sông.

Vô danh thị vịnh bà theo thể ca trù như sau:

Khẳng khái tòng vương dị,
Thung dung tựu nghĩa nan.
Phận bọt bèo xiết nỗi khách hồng nhan,
Lòng vàng đá mấy thuở ông Tiền Trạch.
Trung sở sự, chàng đành kiệt lực,
Nhất nhi trung, nàng vẹn chữ tòng.
Lấy áo xiêm mà trả nợ non sông,
Đem lòng trắng giãi cùng bích thủy.
Nhị Giang phong trích cương thường lệ,
Thúy Ái ba đào tiết nghĩa thân.
Người liệt nữ, kẻ trung thần,
Gương trước để soi chung lai thế.
Nào là kẻ trung thần nghĩa sĩ,
Để cương thường một đấng phụ nhân.
Đùn đùn khói tỏa giang tân.

Kỳ Hoa
Nguyễn Văn Trước

Theo “Bà Phan Thị Thuấn”
Đăng trên Văn Hóa Nguyệt San số 2 tháng 6-1952

Theo bản scan đăng trên Nhà Kho Quán Ven Đường do Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tập và chia sẻ (ndclnh-mytho-usa.org)

Xem thêm: