“Thập bát La Hán” là chỉ 18 vị La Hán trong Phật giáo ở thế gian hộ Pháp, vốn đều là đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Thích Ca Mâu Ni vì để Phật Pháp có thể được lưu truyền cho hậu thế, khiến chúng sinh có cơ duyên nghe Pháp nên đã căn dặn các vị La Hán ở lại thế gian để hoằng dương Phật Pháp, làm lợi cho chúng sinh.

18 vi La Han 02
Tranh thêu lụa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và 18 vị La Hán. Tây Tạng, thế kỷ 19. (Tranh: Los Angeles County Museum of Art, Public Domain)

Có rất nhiều thuyết về các vị La Hán. Vào triều nhà Đường chủ yếu lưu hành thuyết về 16 vị La Hán. Đến thời Đường mạt cho đến đầu nhà Thanh, khi người đời tạc tượng 16 vị La Hán, xuất phát từ lòng tôn kính nên đã đem Khánh Hữu tôn giả và đại sư Huyền Trang thêm vào thành 18 vị. Nhưng vào thời Càn Long, Hoàng đế đã xác định vị La Hán thứ 17 và 18 là La Hán Hàng Long và La Hán Phục Hổ. Tất nhiên còn có nhiều thuyết khác, không hoàn toàn cố định. Dưới đây là lai lịch của 18 vị La Hán được nhiều người biết đến:

1. Tôn giả Bạt La Đọa

Ông vốn là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Đà Diên. Sau khi xuất gia, ông thường cưỡi hươu về cung khuyên bảo quốc vương xuất gia. Vì vậy, ông được người đời gọi tên là “Tọa Lộc La Hán”. Sau này quốc vương nghe ông thoái vị nhường ngôi cho Thái tử và đi tu.

2. Tôn giả Già Phạt Tha

Ông nguyên là một nhà hùng biện của Ấn Độ cổ đại.

Tương truyền có người từng hỏi ông: “Thế nào là vui?

Ông giải thích rằng: “Từ thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác mà cảm nhận được vị của niềm vui.

Người ta lại hỏi ông: “Thế nào là khánh (mừng)?

Ông trả lời rằng: “Không do tai mắt mũi miệng tay mà cảm thấy vui thì đó là khánh, ví dụ như thành tâm hướng Phật, tâm cảm nhận thấy Phật thì vui.

Cho nên, người đời gọi ông là “Hỉ Khánh La Hán”.

3. Tôn giả Nặc Già Bạt Lý Đà

Ông là một vị hòa thượng hóa duyên. Phương pháp hóa duyên của ông không giống người khác mà là ông giơ bát lên cao để hướng về người xin ăn. Sau này thế nhân gọi ông là “Cử Bát La Hán”.

4. Tôn giả Tô Tần Đà

Ông là vị đệ tử cuối cùng của Phật Thích Ca Mâu Ni. Tháp là tượng trưng cho Phật, vì để tưởng niệm mình đã đi theo Phật nên ông tự tạo ra một cái tháp và mang theo bên mình. Vì vậy, người đời sau này gọi ông là “Thác Tháp La Hán”.

5. Tôn giả Nặc Cự La

Vị La Hán này vốn là một võ sĩ. Sau khi xuất gia, Sư phụ vì muốn ông vứt bỏ tính cách lỗ mãng khi xưa nên bắt ông ngồi tĩnh tọa. Khi ông ngồi tĩnh tọa liền hiện ra thể trạng đại lực sĩ, đây là lý do người đời sau gọi ông là “Tĩnh Tọa La Hán”.

6. Tôn giả Bạt Đà La

Vị La Hán này vốn là một người phục vụ việc ăn uống và tắm rửa của Phật Tổ. Mẹ của ông sinh ông ở dưới gốc cây Bạt Đà La – một loài cây quý hiếm của Ấn Độ, nên đặt tên ông là Bạt Đà La. Sau này ông đi thuyền vượt sông vượt biển để truyền bá Phật giáo nên có tên là “Quá Giang La Hán”.

7. Tôn giả Già Lực Già

Ông vốn là một vị có khả năng thuần phục voi. Năng lực và khả năng làm việc của voi lớn lại có thể nhìn xa. Người đời gọi ông là “Kỵ Tượng La Hán”.

8. Tôn giả Phật Đà La

Ông nguyên là một thợ săn dũng mãnh, ngay cả hổ và sư tử cũng bị ông săn bắt. Sau khi xuất gia ông từ bỏ sát sinh nên khi được chứng quả La Hán, có hai con sư tử đi đến bên ông cảm kích ông đã buông bỏ đao kiếm. Sau khi thành đạo, ông đã đưa hai con sư tử bên mình nên mọi người gọi ông là “Tiếu Sư La Hán”.

9. Tôn giả Tuất Bác Già

Ông vốn là Thái tử Trung Thiên Trúc. Khi người em của ông muốn tranh đoạt ngôi vua với ông, ông nói: “Trong tâm ta chỉ có Phật, chứ không có Vương vị.” Người em thấy tâm ông có Phật nên không làm loạn nữa. Cũng vì thế mà người đời gọi ông là “Khai Tâm La Hán”.

10. Tôn giả Bạn Nặc Già

Ông được sinh ra ở ven đường. Mỗi khi ngồi đả tọa xong, ông liền giơ hai tay lên đầu và thở dài một hơi, nên sau này được người đời gọi là “Thám Thủ La Hán”.

11. Tôn giả La Hầu La

Ông là người con trai của Phật Thích Ca Mâu Ni, sau theo cha đi xuất gia làm một trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Ông được người đời gọi là “Trầm Tư La Hán”.

12. Tôn giả Na Già Tê

Ông vốn là một nhà lý luận. Vì luận “nhĩ căn” mà nổi tiếng thế nhân. Cái gọi là “nhĩ căn” chính là một trong số lục căn bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lục căn là khí quan chủ yếu để chúng ta nhận thức thế giới. Muốn tu Phật, lục căn phải thanh tịnh. Trong lục căn thì nhĩ căn sinh ra nhận thức. Cho nên nhĩ căn thanh tịnh là quan trọng nhất. Bởi vì vị La hán này có nhĩ căn thanh tịnh nhất nên khi tạc tượng trong Phật giáo thường đắp hình dáng của ông thành hình nhĩ căn. Vì vậy, người đời gọi ông là “Oạt Nhĩ La Hán”.

13. Tôn giả Nhân Già Đà

Ông vốn là người bắt rắn ở Ấn Độ cổ. Khi đi bắt rắn trong núi ông thường mang túi to để tránh cho người đi đường bị rắn cắn. Sau đó ông lại nhổ bỏ răng độc của chúng đi và thả vào rừng núi. Bởi vì bên thân ông luôn có chiếc túi nên người đời gọi ông là “Bố Đại La Hán”.

14. Tôn giả Phạt Na Ba Tư

Ông vốn là một người buôn bán. Ngày ông ra đời trời mưa rất to. Lá cây chuối ở hậu viện bị mưa rơi xuống kêu sột soạt nên mẹ ông đặt ông là Phạt Na Ba Tư (tiếng Phạn có nghĩa là mưa). Sau này khi ông xuất gia thường hay đứng dưới cây chuối dụng công nên có tên là “Ba Tiêu La Hán”.

15. Tôn giả A Thị Đa

Khi sinh ra ông đã có lông mày trắng dài rủ xuống, bởi kiếp trước ông chính là một hòa thượng tu hành, tu hành đến già, tóc đều rụng hết chỉ còn hai cọng lông mày dài. Sau khi chết đầu thai chuyển thế, cọng lông mày này cũng được mang theo. Cha mẹ ông biết rõ ông là người tu hành cho nên lại đưa ông đi xuất gia. Cuối cùng ông tu thành La Hán và được thế nhân gọi là “Trường Mi La Hán”.

16. Tôn giả Hán Đồ Bạn Trá Già

Sau khi xuất gia, mỗi lần ông đi hóa duyên đều dùng nắm tay gõ cửa từng nhà để họ ra bố thí. Phật cho rằng cách của ông không ổn nên đã ban cho ông một cây gậy tích trượng. Lúc ông hóa duyên thì dùng cây gậy này rung lắc trước cửa, chủ nhà nghe thấy thanh âm này sẽ vui mừng mà ra cửa bố thí. Vì vậy ông được gọi là “Khán Môn La Hán”.

17. Tôn giả Vi Khánh Hữu

Tương truyền thời Ẩn Độ cổ bắt đầu ghi chép kinh Phật, một ác ma đã xúi giục, kích động người dân sát hại tăng nhân, hủy tượng Phật và đem kinh Phật cướp đi. Long Vương đã dùng nước bao phủ nơi đó và đem kinh Phật về long cung. Khánh Hữu hàng phục Long Vương, thu hồi kinh Phật. Cho nên, người đời gọi ông là “Hàng Long La Hán”.

18. Tôn giả Vi Tân Đầu Lô

Ông vốn là một tăng nhân. Bên ngoài chùa của ông thường có hổ gầm nên ông cho rằng hổ đói bụng. Thế là, ông liền đem phần cơm của mình cho hổ ăn. Dần dà, hổ bị tấm lòng lương thiện của ông thu phục. Đây cũng là lý do mà mọi người gọi ông là “Phục Hổ La Hán”.

Theo Vision Times tiếng Trung
An Hòa biên tập

Xem thêm:

Mời xem video: