Nội hàm sâu sắc của “Thiên thư” trong bài thơ “Nam quốc sơn hà”
- Trần Hưng
- •
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” là bài thơ nổi tiếng nhất trong sử Việt, được xem là lời khẳng định chủ quyền của dân tộc. Đã là người Việt thì hầu như ai cũng biết đến bài thơ này.
Nam quốc sơn hà
Mặc dù phổ biến, nhưng “Nam quốc sơn hà” có rất nhiều dị bản, ít nhất là 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích. Hơn nữa, bài thơ cũng không có tên, mà do người đời sau lấy bốn chữ đầu của bài thơ làm tên gọi. Thư tịch cổ nhất có chép bài thơ này là “Việt điện u linh tập”, song dị bản được nhiều người biết đến nhất lại là trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, phần về cuộc chiến Tống – Việt lần thứ hai:
南國山河南帝居,
截然分定在天書。
如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虚。
Phiên âm Hán Việt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành phân định tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Trước đây, người ta thường cho rằng “Nam quốc sơn hà” là bài thơ của Lý Thường Kiệt nhằm khẳng định chủ quyền dân tộc và khích lệ tinh thần quân sỹ trong cuộc chiến bảo vệ giang sơn chống lại quân Tống năm 1077. Tuy nhiên, trong cuộc chiến Tống – Việt lần thứ nhất của vua Lê Đại Hành, theo “Lĩnh Nam chích quái”, phần “Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt” đã xuất hiện “Nam quốc sơn hà” (Xem bài: Không phải của Lý Thường Kiệt, bài thơ Nam quốc sơn hà có từ bao giờ?). Nội dung bài thơ như sau:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư
Dịch là:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Sách Trời định phận rõ non sông
Cớ sao giặc bắc sang xâm phạm?
Bây hãy chờ gươm chém bại vong
Dẫu có nhiều dị bản, nhưng bản “Nam quốc sơn hà” nào cũng khẳng định việc phân định bờ cõi là dựa vào “thiên thư”, vậy “thiên thư” ở đây mang ý nghĩa như thế nào?
Thiên thư – Căn cứ để phân chia bờ cõi
Người xưa vốn kính ngưỡng trời đất, việc phân chia bờ cõi cũng là căn cứ vào trời đất. Sách “Sử ký – Thiên quan thư” có ghi chép rằng: “Thiên tắc hữu liệt tú, địa tắc hữu châu vực”, nghĩa là trời thì có các vì sao, đất thì có châu vực. Văn hóa cổ truyền xem sự biến hóa của thiên văn để hiểu những việc ở dưới cõi người, những điều này nằm trong học thuyết về “thiên – địa – nhân” của người xưa.
Từ thời xuân thu chiến quốc, người xưa đã cho rằng các vì sao trên trời là ứng với các châu, quốc dưới mặt đất. Các triều đại trước đây đều có các quan phụ trách về thiên văn, trong đó có nói tới 28 ngôi sao quan trọng là nhị thập bát tú chia đều ở 4 phương Bắc, Nam, Đông, Tây:
- Bốn phương cụ thể là: Thanh Long (rồng xanh, ở phương Đông), Bạch Hổ (hổ trắng, ở phương Tây), Chu Tước (sẻ đỏ, ở phương Nam) và Huyền Vũ (rùa đen, ứng với phương Bắc).
- Nhị thập bát tú cụ thể gồm 28 sao: “Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Túy, Sâm, Tĩnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chấn”. Trong đó phương Bắc ứng với các sao “Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích”; phương Nam ứng với các sao “Tĩnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn”.
Quan niệm nước ứng với sao thì dẫu là Trung Hoa hay nước ta cũng đều như vậy. Ví dụ như tại Việt Nam, năm 1833 vua Minh Mạng đã cho xây đài thiên văn để đo lại bóng mặt trời, và quan sát các vì sao trong nhị thập bát tú để duyệt lại cương vực lãnh thổ. Kết quả là Việt Nam hoàn toàn nằm trong phần của sao Dực, sao Chẩn và một phần của sao Quỷ.
Trong truyền thuyết, khi Kinh Dương Vương lên ngôi vua lập ra vương quốc đầu tiên của các thị tộc người Việt thì tên nước được chọn là “Xích Quỷ”. Nước Việt cổ thời đó rộng hơn bây giờ rất nhiều. Nhưng một số người cho rằng do truyền thuyết này mang âm hưởng tiếng Hán, với những tên như Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, hơn nữa có những sự thay đổi bất thường về mặt không gian và thời gian, với các dị bản (Xem bài: Sự tích “Con rồng cháu tiên”: Một truyện cổ, hai truyền thuyết), nên cũng cho rằng cái tên Xích Quỷ là do người Trung Quốc đặt ra, mang ý nghĩa miệt thị người Việt là bọn quỷ đỏ. Còn về truyền thuyết Hùng Vương, nhiều nhà nghiên cứu từ xưa đến nay cũng cho rằng chỉ là do hậu thế thêm thắt (Xem bài: Hùng Vương có tự bao giờ?).
Truyền thuyết thông qua lưu truyền dân gian mà ít nhiều biến đổi, nhưng có một số chỗ vẫn có thể gợi mở cho chúng ta. Thật ra có một cách giải thích khác về từ “Xích Quỷ” này, trong đó “Quỷ” là chỉ sao Quỷ, hay sao Quỷ Kim Dương trong Nam phương chu tước của Nhị thập bát tú, ứng với chòm Cự Giải của phương Tây. Xích (赤) là từ để chỉ phương Nam thời xưa (theo từ điển Hán Việt trích dẫn). Ngoài ra, Xích (đỏ) có thể liên quan đến học thuyết ngũ hành, giống như nhà Tần chọn màu đen vì cho rằng ứng với mệnh Thủy, nhà Hán chuộng màu đỏ vì cho rằng ứng với mệnh Hỏa nên còn gọi là Viêm Hán. Nếu quả là như vậy thì người Việt xưa cũng dựa vào thiên văn để đặt ra quốc hiệu của riêng mình.
Tương tự như vậy “Thiên thư” trong bài thơ “Nam quốc sơn hà” nếu hiểu thâm sâu hơn, chính là ý nói đến các ngôi sao trên bầu trời, ứng với cương vực của một nước, là điều được công nhận từ ngàn xưa và được xem là “ý Trời”. Người Hoa Hạ hay Bách Việt đều có tín ngưỡng vào trời đất, áp dụng học thuyết “Thiên – Địa – Nhân” vào cuộc sống hàng ngày, nên hiểu rằng “Thiên thư” ấy là phép tắc vĩnh hằng mà con người cần phải viên dung theo đó.
Cũng như vậy, hai câu sau của bài thơ:
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
không phải là một lời tuyên bố mang tính khiêu khích hay một lời cổ động tinh thần quân sĩ, mà là một lẽ hiển nhiên, bởi một khi đi ngược lại với “Thiên thư”, ngược với ý Trời thì không thể thành công được.
Trần Hưng
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ khóa Lý Thường Kiệt Lê Đại Hành Nam quốc sơn hà thiên văn lịch sử Việt Nam