Trần Bích San là một trong những người hiếm hoi đỗ đầu cả 3 kỳ thi là thi Hương, thi Hội và thi Đình, tức “Tam nguyên”. Ông làm quan được dân chúng tin yêu. Ở vào thời điểm nhà Nguyễn không kịp chuyển mình trước nguy cơ của người Pháp, ông trở thành một tấm gương đáng kính trong triều.

truong thi 1900
Minh họa cảnh trường thi năm 1900. (Ảnh: Báo Giáo dục & Thời đại)

“Liên Trúng Tam Nguyên”

Trần Bích San sinh năm 1840 người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, trong một gia đình khoa bảng. Bố ông là Trần Đình Khanh đỗ Phó bảng.

Năm 1845, Hoàng giáp Phạm Văn Nghị từ quan về quê nhà dạy học ở làng Tam Đăng, huyện Đại An (nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên tỉnh Nam Định). Trần Bích San được cha cho đến học với thầy Nghị.

Khoa thi năm 1864, Trần Bích San tham dự và đỗ đầu kỳ thi Hương tức Giải nguyên ở trường thi Nam Định. Sang năm sau 1865, ông tham dự tiếp và lại đỗ đầu kỳ thi Hội và thi Đình. Vì ông là người làng Vị Xuyên nên người thời đó gọi là “Tam nguyên Vị Xuyên”.

Vua Tự Đức ban cờ biển vinh quy thêu 4 chữ “Liên Trúng Tam Nguyên”, nghĩa là đứng đầu 3 kỳ khảo thí liên tiếp.

Làm quan lễ nghĩa được dân chúng xem như cha mẹ

Thi đỗ, Trần Bích San được bổ nhiệm làm quan, lần lượt giữ các chức vị như Tu soạn Viện Hàn lâm, Án sát Bình Định, Biện lý bộ Hộ, Tuần phủ Hà Nội…

Ông được người thời bấy giờ ví với danh sĩ Vương Tăng thời nhà Tống (Vương Tăng đỗ tiến sĩ làm quan đến Đồng bình chương sự tức Tể tướng). Ông được vua Tự Đức trọng dụng, gọi là Trần Hy Tăng.

Khoa thi năm 1868, ông được cử làm Phó chủ khảo kỳ thi Hương ở trường thi Thừa Thiên. Lúc này vua Tự Đức không có ý muốn chống Pháp nên đã ký các Hòa ước nhượng 6 tỉnh Nam bộ cho Pháp. Khi gợi ý đề thi cho các sĩ tử, ông đã nói những lời trái với quan điểm nhượng bộ của vua Tự Đức, nên sau đó ông bị giáng chức.

Trần Bích San bị giáng chức, đến làm Tri phủ An Nhơn (Bình Định). Người dân An Nhơn sau này xem đây là điều may mắn, bởi Trần Bích San làm quan luôn lo lắng cho dân, dân xem ông đúng là vị quan phụ mẫu. Ông không chỉ giúp dân có kế mưu sinh, no ấm, mà còn lưu lại thuần phong mỹ tục, giúp dân sống chan hòa, có lễ nghĩa, giúp chuẩn mực đạo đức tinh thần người dân được nâng cao.

Người dân An Nhơn đến nay vẫn còn lưu truyền “Gia huấn ca” của Trần Bích San khuyên bảo dân chúng học theo. Nhiều nơi gọi đây là “Thơ tam khôi” của Tam nguyên Trần Bích San. Những lời khuyên giáo huấn trong tập thơ này như:

Làm trai chí ở cho bền
Nghề chi cũng phải chuyên nên một nghề
Nửa chừng làm chẳng ra bề
Thầy dở thợ vụng bạn chê người cười.

Lời khuyên cho phận gái trong gia đình:

Gặp đồ vật lạ của ngon
Mua về cha mẹ gọi con thảo tình
Chớ đi tăm tối một mình
Dầu ngay cho lắm thời tình cũng gian

Trong cách hành xử của mình ông cũng luôn thể hiện là người có lễ nghĩa. Người dân An Nhơn vẫn lưu truyền câu chuyện ông mua xấp lụa An Nhơn gửi về quê biếu mẹ. Lụa An Nhơn bấy giờ nức tiếng trong nước, nhưng mẹ ông gửi trả lại xấp lụa kèm theo 1 cái roi mây. Biết mẹ gửi kèm roi là răn mình làm quan nơi xứ người không được lấy chuyện công làm chuyện tư, không được nhận biếu xén. Ông hướng về phía bắc nơi quê nhà lạy tạ cảm ơn mẹ.

Tự vẫn phản đối Triều đình hòa hoãn nhượng đất cho Pháp

Triều đình dù giáng chức nhưng vẫn tận dụng tài năng của Trần Bích San, nên năm 1870 ông được cử đi sang nhà Thanh.

Trước việc vua Tự Đức chỉ muốn nghị hòa mà không muốn chống Pháp, Trần Bích San làm nhiều bài thơ nhằm thức tỉnh người thời đó. Ông đề xuất lên Triều đình các cải cách về giáo dục, tuyển chọn nhân tài, xây dựng quân sự, thông thương cảng biển, mở mang công nghiệp.

Năm 1877, vua Tự Đức cử Trần Bích San dẫn đầu phái đoàn sang Pháp để nghị hòa, nhưng Trần Bích San luôn muốn chống Pháp. Nếu không đi thì cãi mệnh Vua, nếu đi phải thực hiện nghị hòa đúng như ý Triều đình. Vì phản đối việc nghị hòa của Triều đình không được, cuối cùng ông đã uống thuốc độc tự tử. Trước khi mất ông để lại bài thơ tuyệt mệnh như sau:

Tự sủy tài sơ xỉ vị cường
Tây sà kim hựu phiếm trùng dương
Cực tri sơn hải ân tình trọng
Na quản đông tây đạo lộ trường
Vạn lý Thiết thành thông dị vực
Thập niên Ngưu chử ức luân cương
Hoàng hoa tương mệnh tri hà bổ
Lại hữu gia du xuất miếu đường.

Bản dịch của Phùng Uông:

Sứ Tây nay lại vượt ba đào
Ơn trên non biển còn mang nặng
Nẻo thẳm đông tây có sá nào
Muôn dặm Thiết thành non nước lạ
Mười năm Bến Nghé đắm chìm đau
Biết mình đi sứ, làm chi được
Trông cậy triều đình có chước cao

Thầy dạy của ông là Phạm Văn Nghị đã thương tiếc làm bài thơ “Điếu Trần Bích San”:

Tài ngộ như kim hữu kỷ nhân,
Điều canh trực nghĩ Tống danh thần.
Nhất tâm đoàn thiết duy ưu quốc,
Vạn lý phù tra cảm ái thân.
Sinh dã hữu nhai tuỳ tạo hoá,
Tử nan minh mục trọng quân thân.
Hoàn danh hoàn cục ninh tu thuyết,
Tráng ngã sơn hà khí vị dân

Bản dịch của Đỗ Ngọc Toại:

Tài ngộ xưa nay được mấy ai?
So cùng tướng Tống, kém chi người
Một lòng son sắt luôn lo nước
Muôn dặm bè khơi, dám tiếc đời
Sống chỉ có chừng, quyền tạo hoá
Chết khôn nhắm mắt, nghĩa vua tôi
Vẹn danh, tròn cuộc, không cần nói
Khí mạnh non sông chửa chút vơi

Vua Tự Đức khi viếng ông đã làm bài thơ như sau:

Long Biên tài hướng phượng thành hồi,
Triều đối do hy vĩnh biệt thôi.
Giả Nghị thiếu niên nan cửu dụng,
Hán Văn tiền tịch chính hoằng khai.
Tam nguyên thanh giá lưu tàn trúc,
Bán dạ phong sương lạc tảo mai.
Không ức thừa tra tuỳ Bác Vọng,
Kỷ hồi thiên mã tự tây lai.

Sau này người cầm đầu phái chủ chiến trong Triều đình là Tôn Thất Thuyết khi đến Vị Xuyên quê hương của Trần Bích San đã để lại đôi câu thơ như sau:

Lân quân độc thủ cô thành, quốc trung thần, gia hiếu tử
Sử ngã kinh qua thử địa, giang bán dạ, nguyệt trung thu

Bản dịch của Hoàng Tạo:

Thương ông riêng tấm lòng thành, con hiếu của nhà, tôi trung của nước
Khiến tôi qua nơi đất cũ, dòng sông đêm vắng, vầng nguyệt giữa thu.

Xem thêm:

Mời xem video: