Tôi hiếm khi đồng quan điểm với Tổng thống Trump, nhưng những tuyên bố gây tranh cãi gần đây của ông ta về Ukraine phần lớn lại phản ánh đúng sự thật. Những quan điểm này có vẻ phi lý chỉ vì suốt hơn một thập niên qua, công chúng phương Tây đã được cung cấp không ngừng nghỉ những thông tin sai lệch về Ukraine. Đã đến lúc cần phải làm rõ ba điểm chính có thể giúp công chúng nhận thức rõ lý do tại sao người Ukraine và cựu Tổng thống Joe Biden – không chỉ riêng Tổng thống Nga Vladimir Putin – phải chịu trách nhiệm đáng kể về việc châm ngòi và kéo dài cuộc chiến ở Ukraine.

321388604 684108989838506 8918465649068836291 n
Tổng thống Zelensky và Tổng thống Joe Biden. (Nguồn: Facebook Zelensky)

Thứ nhất, như đã được chứng minh bởi bằng chứng xác thực không thể chối cãi, thậm chí được cả một tòa án Kiev thừa nhận, chính những phần tử cực hữu Ukraine đã khơi mào bạo loạn vào năm 2014, khiến Nga phát động cuộc xâm lược ban đầu vào miền đông nam của Ukraine bao gồm cả Crimea. Vào thời điểm đó, Ukraine có một tổng thống thân Nga, Viktor Yanukovych, chính trị gia đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tự do và công bằng vào năm 2010 với sự ủng hộ mạnh mẽ từ những người gốc Nga ở phía đông nam Ukraine.

Năm 2013, ông Yanukovych quyết định theo đuổi hợp tác kinh tế với Nga thay vì với châu Âu như đã dự định trước đó. Các nhà hoạt động thân phương Tây đã phản ứng bằng cách chiếm đóng quảng trường Maidan và các văn phòng chính phủ ở thủ đô Kiev của Ukraine một cách ôn hòa, cho đến khi tổng thống Yanukovych cuối cùng đưa ra những nhượng bộ đáng kể vào giữa tháng 2 năm 2014, sau đó phần lớn người biểu tình đã rút lui.

Thế nhưng, ngay lúc đó, những phần tử cực hữu đang quan sát từ trên cao bắt đầu nổ súng vào lực lượng cảnh sát Ukraine và cả những người biểu tình còn lại. Lực lượng cảnh sát đã đáp trả bằng hỏa lực vào những phần tử này. Nhưng sau đó, những phần từ cực hữu này đã dối trá cáo buộc rằng cảnh sát đã sát hại những người biểu tình không vũ trang. Phẫn nộ trước cái gọi là vụ thảm sát của chính phủ, người dân Ukraine đổ về thủ đô và lật đổ tổng thống Yanukovych, buộc ông phải tháo chạy sang Nga để nhận được bảo vệ.

Ông Putin đã phản ứng bằng cách triển khai quân đội đến Crimea cũng như vận chuyển vũ khí đến vùng Donbass ở miền đông nam thay mặt cho những người gốc Nga, những người cảm thấy tổng thống của họ đã bị lật đổ một cách phi dân chủ. Mặc dù câu chuyện quá khứ này không biện minh cho cuộc xâm lược của Nga sau này, nhưng nó giải thích rằng cuộc chiến tranh này hầu như không phải là “[vô duyên] vô cớ“.

Thứ hai, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã tiếp sức cho một cuộc chiến tranh lớn hơn bằng cách vi phạm những thỏa thuận hòa bình với Nga và tìm kiếm viện trợ quân sự cùng tư cách thành viên NATO. Những thỏa thuận, được biết đến với tên gọi Minsk 1 và 2, đã được đàm phán dưới thời Tổng thống Ukraine tiền nhiệm Petro Poroshenko vào năm 2014 và 2015 để chấm dứt chiến sự ở miền đông nam và bảo vệ quân đội đang gặp nguy hiểm.

Theo đó, Ukraine phải bảo đảm quyền tự trị chính trị hạn chế cho khu vực Donbass vào cuối năm 2015, một điều mà ông Putin tin rằng sẽ đủ để ngăn Ukraine gia nhập – hoặc đóng vai trò là căn cứ quân sự cho – NATO. Đáng tiếc, Ukraine đã từ chối thực hiện cam kết đó trong suốt bảy năm.

Ông Zelensky thậm chí còn vận động tranh cử vào năm 2019 với lời hứa cuối cùng sẽ thực hiện các thỏa thuận để ngăn chặn chiến tranh tiếp diễn. Nhưng sau khi đắc cử, ông Zelensky đã thất hứa, dường như lo ngại bị xem là mềm yếu trước Nga hơn là nguy cơ chiến tranh tiếp diễn.

Thay vào đó, ông Zelensky tăng cường nhập khẩu vũ khí từ các quốc gia NATO, động thái này là giọt nước tràn ly đối với ông Putin. Vì vậy, vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, Nga đã chính thức công nhận nền độc lập của Donbass, triển khai quân đội đến đó để “gìn giữ hòa bình“, và yêu cầu ông Zelensky từ bỏ nỗ lực tìm kiếm viện trợ quân sự và tư cách thành viên NATO.

Khi ông Zelensky một lần nữa từ chối, ông Putin đã mở rộng quy mô chiến dịch quân sự vào ngày 24 tháng 2. Dù cố ý hay không, ông Zelensky đã khiêu khích Nga xâm lược, mặc dù điều đó rõ ràng không phải là lý do biện minh cho những tội ác chiến tranh sau đó của Moskva.

Thứ ba, ông Joe Biden cũng đóng góp quan trọng vào việc leo thang và kéo dài cuộc chiến. Vào cuối năm 2021, khi ông Putin huy động lực lượng quân đội ở biên giới Ukraine và yêu cầu thực hiện các thỏa thuận Minsk, dường như hiển nhiên là trừ khi ông Zelensky nhượng bộ, Nga sẽ xâm lược để ít nhất là tạo ra một cầu nối đất liền giữa Donbass và Crimea.

Xét đến việc Ukraine đã phụ thuộc sinh tử vào viện trợ quân sự của Hoa Kỳ, nếu Tổng thống Biden khăng khăng yêu cầu ông Zelensky tuân theo yêu cầu của ông Putin, điều đó đã có thể xảy ra. Thay vào đó, ông Biden đáng tiếc đã để ông Zelensky quyết định và cam kết rằng nếu Nga xâm lược, Hoa Kỳ sẽ đáp trả “nhanh chóng và dứt khoát“, điều mà ông Zelensky hiểu là ông Biden đã bật đèn xanh để thách thức ông Putin.

Nếu ông Trump là tổng thống, có lẽ ông đã không viện trợ Ukraine vô điều kiện như vậy, do đó ông Zelensky hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thực hiện các thỏa thuận Minsk để ngăn chặn chiến tranh. Ngay cả khi ông Zelensky vẫn từ chối và khiêu khích Nga xâm lược, ông Trump sẽ từ chối cho ông Zelensky quyền phủ quyết các cuộc đàm phán hòa bình. Ngược lại, ông Biden đã liều lĩnh để Ukraine toàn quyền quyết định về hòa bình bằng cách tuyên bố, “Không có gì về Ukraine mà không có Ukraine“.

Lời cam kết đó đã bi thảm khích lệ Ukraine kéo dài cuộc chiến với hy vọng cuối cùng nhận được viện trợ quân sự quyết định từ Hoa Kỳ, điều mà sau đó ông Biden đã từ chối cung cấp do lo ngại leo thang hạt nhân. Theo cách đó, ông Biden đã gieo rắc hy vọng hão huyền ở Ukraine, kéo dài một cuộc chiến không cần thiết đã sát hại hoặc làm bị thương hàng trăm ngàn người chỉ trong hai năm qua, trong đó tiền tuyến đã dịch chuyển chưa đến 1 phần trăm lãnh thổ của Ukraine.

Những phác thảo cơ bản về một thỏa thuận để chấm dứt giao tranh đã dần hiện rõ ngay cả khi các chi tiết vẫn còn phải đàm phán, như ông Trump và ông Putin đã bắt đầu thực hiện vào ngày 18/3 trong một cuộc điện đàm. Nga sẽ tiếp tục chiếm đóng Crimea và các khu vực khác ở phía đông nam, trong khi phần còn lại của Ukraine sẽ không gia nhập NATO nhưng sẽ nhận được những bảo đảm an ninh từ một số quốc gia phương Tây. Điều đáng buồn là kế hoạch như vậy có thể đã đạt được ít nhất hai năm trước nếu Tổng thống Biden đưa ra điều kiện viện trợ quân sự là ông Zelensky phải đàm phán ngừng bắn.

Thậm chí còn bi thảm hơn, bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào xuất hiện sau cuộc chiến sẽ tệ hơn cho Ukraine so với các hiệp định Minsk mà ông Zelensky đã dại dột từ bỏ do tham vọng chính trị và kỳ vọng ngây thơ vào sự hỗ trợ vô tận của Hoa Kỳ.

Alan J. Kuperman – Giáo sư tại Đại học Texas ở Austin, nơi ông giảng dạy các khóa học về chiến lược quân sự và quản lý xung đột.

Thiên Vân chuyển ngữ

(Bài gốc tiếng Anh đăng trên trang The Hill và đây là quan điểm riêng của tác giả không phản ánh quan điểm của The Hill cũng như Trí thức VN).