National Post: Cộng sản Trung Quốc là virus lớn nhất đe dọa chúng ta
- Minh Nhật
- •
Ngày 23/3 vừa qua, tờ National Post đăng tải bài viết của Kevin Libin, biên tập viên của tờ National Post và Financial Post, nêu quan điểm về việc tại sao cần sử dụng tên gọi “virus Trung Cộng” cho virus COVID-19, thứ virus đang tạo ra một cuộc khủng hoảng về mọi lĩnh vực trên toàn cầu.
Dưới đây là bản dịch toàn văn bài viết. Bản gốc xem tại đây.
*
Chế độ Cộng sản Bắc Kinh là “virus Trung Quốc” lớn nhất đe dọa sự tồn tại của chúng ta
Trong những tuần đầu quan trọng [của đại dịch virus COVID-19], chính quyền [Đảng Cộng sản] Trung Quốc đã dối trá và phủ nhận thông tin, và giờ đây cả thế giới đang phải trả giá.
Các phóng viên Nhà Trắng có lẽ sẽ bị sốc khi biết được độc giả đang cảm thấy họ thật vô bổ khi quấy rầy tổng thống Donald Trump trong việc nêu bật nguồn gốc của COVID-19 là từ Trung Quốc. Tổng thống đã gọi nó là “virus Trung Quốc”. Các nhân viên báo chí thì thách thức tổng thống, cho rằng cách gọi đó là “phân biệt chủng tộc”. Cũng có thể. Nhưng điều bất ngờ là việc người Hán tại Đài Loan cũng đang gọi virus này theo địa điểm nó bùng phát – Vũ Hán, Trung Quốc – một cách bình thường, không dị nghị.
Trong khi đó, hầu hết chúng ta có thể đều cho rằng ưu tiên lớn nhất hiện nay là tập trung vào đại dịch đáng sợ và nguy hiểm trên toàn cầu, hơn là tính chính xác chính trị của một cụm từ. Nhưng người Mỹ và tất cả thế giới sẽ không quên kẻ nào phải chịu trách nhiệm cho việc bùng phát dịch bệnh, và khiến nó trở nên chết chóc hơn, hủy diệt hơn – kẻ đó không phải là người dân Trung Quốc, những người đã phải chịu đựng quá nhiều ở cả quê nhà lẫn trên thế giới. Trách nhiệm của đại dịch này nằm ở chính quyền cộng sản tội ác và ích kỷ, cái chính quyền đã thống trị Trung Quốc bất chấp việc người dân Trung Quốc có thích nó hay không. Và sau khi chứng kiến phản ứng kém cỏi của Bắc Kinh trước một cuộc bùng phát virus có thể lây lan toàn cầu, với sự dối trá, hoang tưởng, bảo vệ bản thân, và tàn bạo, thì chắc hẳn người dân Trung Quốc còn căm ghét chính quyền cộng sản này hơn nữa. Có lẽ chúng ta nên cùng thỏa hiệp và gọi virus này là “virus Trung Cộng”, hay virus ChiCom-19(*)?
(*) Viết tắt của Chinese Communist Party – Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Sự che đậy và dối trá của chính quyền Trung Quốc rõ ràng là do họ sợ, và những ai tin rằng Bắc Kinh không còn tiếp tục dối trá khi tuyên bố họ đã thành công kỳ diệu trong nỗ lực khoanh vùng dịch và cải thiện tỷ lệ tử vong thì thật là những kẻ “lạc quan”. Tập Cận Bình và bộ sậu có thừa lý do để tin rằng đại dịch sẽ làm quyền lực trong tay họ suy yếu. Nền kinh tế của Trung Quốc đang rơi tự do, với sản lượng công nghiệp trong tháng 1 tháp nhất kể từ 1990. Tất cả các chính quyền đều lo lắng liệu họ có thể sống sót vượt qua dịch bệnh này hay không, nhưng với chỉnh quyền độc tài một đảng thì đó là nỗi lo sợ cho nguy cơ tồn vong của Đảng. “Khế ước xã hội của Đảng với người dân – đó là đảm bảo phúc lợi và cung cấp thịnh vượng kinh tế ngày càng tăng – đang bị khủng hoảng trên quy mô toàn quốc, theo một cách tôi chưa từng thấy trong vài thập kỷ qua”, Bill Bishop, một chuyên gia nổi tiếng về Trung Quốc, viết trên blog chuyên về Trung Quốc của ông vào tháng trước.
Tập Cận Bình từ lâu đã khoác lác rằng mô hình chính quyền cộng sản của ông ta là ưu việt hơn mô hình dân chủ tự do. Nếu việc đàn áp thông tin về số ca tử vong có thể bảo tồn niềm tin ưu việt ấy, ai cho rằng ông ta sẽ không làm thế? Việc Bắc Kinh tăng cường nỗ lực kiểm duyệt và tuyên truyền nhà nước, trục xuất các phóng viên từ những hãng truyền thông lớn của Mỹ vào tuần trước, trong khi tuyên bố đã chế ngự được dịch bệnh, cho chúng ta cơ sở chắc chắn để nghi ngờ tuyên bố của họ.
Để chứng minh việc Bắc Kinh sẵn sàng lừa dối thế giới bất kể hậu quả nhân mạng, chúng ta không cần tìm đâu xa, hãy nhìn vào cách họ hành động trong giai đoạn đầu của dịch bệnh. Những ca bệnh đầu tiên từ Vũ Hán đã bắt đầu xuất hiện từ giữa tháng 11. Khi bác sĩ bắt đầu cảnh báo vào tháng 12 về một virus chết người, họ bị chính quyền kết tội lan truyền “dối trá” và buộc phải “thú tội”. Khi virus lây lan hơn nữa vào tháng 12, chính quyền vẫn hạ thấp nguy cơ, khăng khăng rằng virus không giống SARS – trong khi rõ ràng nó giống – và còn nói virus đã bị khoanh vùng, và không lây từ người sang người. Khi số người chết tăng lên vào tháng 1, bất cứ thảo luận nào trên mạng đi ngược với thông báo mập mờ của chính quyền sẽ bị cấm, bị xóa. Trong những tuần đầu tiên quan trọng của đại dịch, chính quyền [Đảng Cộng sản] Trung Quốc đã dối trá và phủ nhận thông tin, thay vì nghiêm túc trong nỗ lực khoanh vùng dịch, trong khi đó, virus lan ra, không kiểm soát, khắp thế giới.
Nếu chứng bảo vệ bản thân hoang tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc là có thể hiểu được [dựa trên bản chất của nó], thì thật khó hiểu khi có những người ở phương Tây, sẵn lòng trợ giúp Bắc Kinh bảo vệ bản thân nó, không chỉ là những phóng viên, thậm chí họ còn không tự biết tham gia vào chiến dịch tuyên truyền của Bắc Kinh trên thế giới, và cho rằng việc nói về nguồn gốc của virus tới từ Trung Quốc là “phân biệt chủng tộc”.
Patty Hajdu, bộ trưởng Bộ Y tế Canada, trong những tuần trước đã từng ca ngợi Trung Quốc vì “rất cởi mở” trong nỗ lực khoanh vùng đại dịch, bởi vì “trong khoảng một tuần (từ lúc phát hiện ra virus), họ đã cho Tổ chức Y tế Thế giới WHO và các nước thành viên biết rằng họ đang kiểm soát một đại dịch”. Kỳ thực là không. Nó đã bức hại các bác sĩ dũng cảm nhằm bịt miệng thông tin về đại dịch trong nhiều tuần trước đó.
Hajdu có vẻ đang theo sau Tổng giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus, người đã ca ngợi “sự lãnh đạo” của Tập Cận Bình chống lại virus. Điều ấy xảy ra sau hai tuần Trung Quốc lảng tránh, trước khi cho phép các chuyên gia y tế quốc tế được vào Trung Quốc để nghiên cứu về đại dịch.
Vào tháng 2, bộ trưởng Bộ Ngoại giao Canada, François-Philippe Champagne, gặp người đồng cấp Wang Yi của chính quyền Trung Quốc tại Hội thảo An ninh Munich, nơi Wang Yi cám ơn Canada vì đã hỗ trợ khẩu trang và trang thiết bị bảo vệ cho Trung Quốc, đồng thời ca ngợi “mối quan hệ đặc biệt” giữa hai nước.
Cách tâng bốc này của chính quyền cộng sản Bắc Kinh là điều chúng ta đã chịu đựng vào lúc chúng ta còn xem Trung Quốc như một nguồn thương mại và sinh lợi dồi dào. Trước đây, các chính trị gia lãnh đạo phương Tây còn xem nhẹ hành vi của chính quyền Trung Quốc khi nạn nhân của nó là Tây Tạng, là Hồng Kông, hay là người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương. Nhưng hiện nay cả thế giới đang phải trả cái giá không nhỏ cho cách cư xử của Bắc Kinh. Và chính quyền Trung Quốc lại còn đang lươn lẹo để né tránh trách nhiệm, thúc đẩy thuyết âm mưu rằng virus thực tế lan truyền từ quân đội Mỹ, chọc tức tổng thống Trump khiến ông phải gọi nó là virus “Trung Quốc”. Nếu tranh luận thì đừng nên tranh luận rằng liệu cách gọi đó có “phân biệt chủng tộc” hay không, mà nên tranh luận về việc liệu tổng thống Trump [thông qua cách gọi đó] có vô tình cho Bắc Kinh một phương tiện khác để tiếp tục đóng giả làm “nạn nhân” của tất cả sự việc này hay không.
Đại dịch này đã cướp mất từ nên kinh tế của thế giới hàng tỷ, nếu không nói là nghìn tỷ đô-la, và sẽ còn lấy đi của chúng ta nhiều hơn thế. Con số người tử vong sẽ còn choáng váng hơn, và là tổn thất vĩnh viễn. Chúng ta sẽ vượt qua thôi, nhưng điều thế giới không thể tiếp tục chấp nhận là mối đe dọa tới sức khỏe và hạnh phúc của chúng ta, mối đe dọa đó là chế độ Cộng sản Trung Quốc. Khi nó nỗ lực trong tuyệt vọng để cứu vớt tính hợp pháp của mình, ít nhất, chúng ta không nên giúp nó. Đây không phải là đại dịch chết chóc đầu tiên tới từ Trung Quốc, và có thể nó cũng không phải đại dịch cuối cùng. Những người dân Trung Quốc thiện lương cần phải tự giải thoát bản thân khỏi chính quyền cộng sản này, nếu chúng ta muốn sống sót trong đại dịch virus tiếp theo.
Kevin Libin
Minh Nhật biên dịch
Xem thêm:
Từ khóa virus corona viêm phổi Vũ Hán virus Trung Cộng Đảng Cộng Sản Trung Quốc Dòng sự kiện