Để chuẩn bị cho cuộc duyệt binh ngày 3 tháng 9, ban tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã hoạt động hết công suất, phát hành hàng loạt bài tuyên truyền, tiếp tục lan truyền những lời dối trá về Cuộc kháng chiến chống Nhật xâm lược và cổ súy cho cái gọi là chủ nghĩa yêu nước nhằm duy trì chế độ mong manh của mình. Tuy nhiên, sự thật không thể che giấu. Những tuyên truyền bịa đặt của ĐCSTQ không những không thể biện minh mà còn phơi bày những sai sót của chính nó, làm nổi bật tình thế khó khăn hiện tại của quân đội ĐCSTQ.

tap can binh
Ông Tập Cận Bình trong lễ duyệt binh kỷ niệm 70 năm ĐCSTQ thành lập chính quyền. (Ảnh cắt từ video)

ĐCSTQ tự coi là “trụ cột trung lưu”

Ngày 21/8, Tân Hoa Xã đăng bài viết có tựa đề “Giải thích chi tiết về các sắp xếp liên quan đến lễ duyệt binh kỷ niệm 80 năm chiến thắng kháng chiến chống Nhật”. Bài báo tuyên bố rằng quân đội của ĐCSTQ là “trụ cột trung lưu” trong cuộc kháng chiến, đồng thời cho biết buổi duyệt binh lần này sẽ trình diễn các lá cờ vinh danh được lựa chọn từ những đơn vị như Bát Lộ Quân, Tân Tứ Quân, Liên quân kháng Nhật Đông Bắc và du kích Hoa Nam.

Tuy nhiên, các đơn vị và lực lượng du kích được liệt kê trên thực tế khó có thể làm chỗ dựa để chứng minh vai trò “trụ cột” trong kháng chiến như ĐCSTQ tuyên bố. Lúc đó, các đơn vị chính quy của Quốc Dân Đảng mới là lực lượng chủ lực chống Nhật, còn quân đội Trung Cộng chỉ đóng vai trò phụ rất hạn chế. Tuyên truyền của Tân Hoa Xã vô tình lại để lộ sự thật.

Cái gọi là “chiến tranh du kích” mà ĐCSTQ tuyên truyền, trên thực tế cũng chỉ là một phần rất nhỏ của toàn bộ mặt trận du kích. Trong các khu vực bị quân Nhật chiếm đóng, có thời điểm hàng trăm ngàn quân Quốc Dân Đảng đang tích cực tiến hành chiến tranh du kích. Tại Đông Bắc, cũng có vô số lực lượng du kích lớn nhỏ, một số có liên hệ với chính phủ Quốc Dân, một số là hoàn toàn tự phát, và phần lớn không hề có quan hệ gì với Trung Cộng. Thế nhưng, Trung Cộng lại cố tình gán nhãn “Liên quân kháng Nhật Đông Bắc” để đánh tráo khái niệm, hòng giành lấy công lao của toàn bộ lực lượng du kích kháng Nhật.

Tân Hoa Xã cũng tuyên bố rằng dân quân là “gốc rễ của chiến thắng”, và trong chiến tranh kháng Nhật, dân quân có quy mô trên 2,6 triệu người, đã tiêu diệt hơn 106.000 quân địch.

Tuy nhiên, theo thống kê y tế của Nhật Bản, trong cuộc chiến xâm lược Trung Quốc, quân Nhật chết khoảng 455.700 đến 700.000 người, bị thương hoặc mất tích hơn 1,93 triệu người, tổng số thương vong vượt quá 2,5 triệu người. Trong khi đó, quân đội Trung Cộng chỉ “tự nhận” tiêu diệt được 106.000 người, mà còn gộp cả lính Nhật và lính ngụy vào cùng một con số. Có thể nói, thành tích thực tế của quân đội Trung Cộng trong kháng chiến là rất nhỏ bé, gần như không đáng kể.

Theo thống kê của phía Nhật Bản, quân nguỵ đã có từ 288.100 đến 574.600 người thiệt mạng, khoảng 742.000 người bị thương, tổng cộng gần 960.000 trường hợp thương vong.

Tổng thương vong của quân Nhật và quân nguỵ trong toàn bộ cuộc kháng chiến tại Trung Quốc ước tính từ 3 đến 3,6 triệu người. Ngay cả khi tính theo con số phóng đại của Trung Cộng là tiêu diệt được hơn 106.000 địch, thì cũng chỉ chiếm khoảng 2,94% đến 3,53% tổng thương vong của kẻ địch.

Trung Cộng thực sự đã đánh được bao nhiêu trận, con số đã cho thấy rõ ràng. Việc Trung Cộng tự nhận là “trụ cột trung lưu” của cuộc kháng chiến chống Nhật, rốt cuộc lại bị chính những con số nghèo nàn của họ vạch trần.

ĐCSTQ nhờ Nhật xâm lược mà giữ được mạng sống

Ngày 25/8, Nhân dân Nhật báo đăng bài viết mang tên “Vai trò trụ cột của Đảng Cộng sản Trung Quốc là then chốt để nhân dân Trung Quốc giành chiến thắng trong kháng chiến chống Nhật”. Bài báo tự nhận rằng ĐCSTQ là “trụ cột và hạt nhân lãnh đạo chính trị” trong cuộc kháng chiến.

Tuy nhiên, cái gọi là “trụ cột trung lưu” đã tự bị bóc trần, bởi số liệu cho thấy quân đội Trung Cộng không đánh được bao nhiêu trận, lại càng không thể là lực lượng lãnh đạo quân sự chủ chốt. Vì vậy, họ chuyển hướng tuyên truyền mơ hồ hơn, tự xưng là “hạt nhân lãnh đạo chính trị” dựa trên lập luận rằng **ĐCSTQ là người khởi xướng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Kháng Nhật”.

Thực tế, sau sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931 (sự biến Thẩm Dương), Trung Cộng gần như không tham gia kháng Nhật, đến tận năm 1934 vẫn miệt mài củng cố căn cứ tại Giang Tây, chỉ làm thổ phỉ, gây rối cho chính phủ Quốc Dân đang lãnh đạo kháng chiến. Đến năm 1935, căn cứ Giang Tây bị tiêu diệt, tàn binh Trung Cộng buộc phải chạy trốn lên Diên An. Vì để sống sót, họ mới giả vờ giương cao ngọn cờ kháng Nhật, nhưng quân đội không hề ra tiền tuyến.

Tháng 12/1936, dưới sự xúi giục của Trung Cộng, Trương Học Lương và Dương Hổ Thành đã bắt cóc Tưởng Giới Thạch, Tổng chỉ huy kháng Nhật. Trung Cộng khi ấy muốn xử tử Tưởng, nhưng Stalin can thiệp, yêu cầu phải thả Tưởng Giới Thạch để ông tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến, giúp giảm áp lực cho Liên Xô.

Sau đó, Trung Cộng tuyên bố việc này là “thành lập Mặt trận Thống nhất Kháng Nhật”, nhưng thực chất chỉ là để được quốc dân chính phủ công nhận. Trung Cộng dùng việc đó để lan truyền dối trá, tự gán cho mình vai trò “lãnh đạo chính trị” trong kháng chiến.

Tuy nhiên, bài báo của Nhân dân Nhật báo còn trích dẫn lời Mao Trạch Đông rằng phải “kết hợp vừa đoàn kết, vừa đấu tranh với Quốc Dân Đảng, dùng đấu tranh để tìm kiếm đoàn kết”.

Ngày 13/8, báo Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đăng bài viết “Củng cố ưu thế chính trị, kiên quyết nghe Đảng chỉ huy – Ghi nhớ thắng lợi vĩ đại của kháng chiến, tôi luyện quân đội nhân dân anh hùng”, trong đó thừa nhận rằng sau khi hình thành mặt trận thống nhất, Mao Trạch Đông đã phản đối quan điểm “mọi thứ phải thông qua và phục tùng Mặt trận Thống nhất”, nhấn mạnh rằng ĐCSTQ phải giữ độc lập chính trị và chỉ nghe lệnh Trung ương Đảng và Quân ủy.

Điều này chứng minh: Trung Cộng tuy tự nhận khởi xướng mặt trận thống nhất, nhưng hoàn toàn không phục tùng chỉ huy chung, không hợp tác thực sự với quân Quốc Dân trong kháng chiến. Mặt trận thống nhất kháng Nhật chỉ là công cụ chính trị để Trung Cộng đối phó với Quốc Dân Đảng, mục đích là để tồn tại, chứ không phải vì lòng yêu nước chống Nhật.

Sau này, Mao Trạch Đông nhiều lần cảm ơn các phái đoàn Nhật đến thăm, cảm ơn quân Nhật đã xâm lược Trung Quốc, vì nếu không có cuộc xâm lược đó, Trung Cộng đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

Ngoài ra, còn một bí mật không thể công khai khác: Sau khi Nhật đầu hàng năm 1945, hơn 100.000 quân Quan Đông ở Đông Bắc đã bị Trung Cộng thu nhận vào đội ngũ. Sau khi về nước, nhiều cựu binh Nhật Bản còn đùa rằng: “Không ngờ cuối cùng chúng tôi lại cùng Trung Cộng đánh bại Quốc Dân Đảng”.

Bài viết trên Nhân dân Nhật báo nhắc đến việc năm 1938, Mao Trạch Đông công bố tác phẩm “Luận về chiến tranh trường kỳ”. Thực tế, Chính phủ Quốc dân đã bắt đầu thực hiện kế hoạch kháng chiến lâu dài ngay sau trận Thượng Hải năm 1937, khi quyết định dời đô về Trùng Khánh. Việc Trung Cộng mãi đến năm 1938 mới đưa ra “Luận về chiến tranh trường kỳ” rõ ràng là đi sau một bước, chỉ là phát pháo muộn, không đủ tư cách để lãnh đạo cuộc kháng chiến.

Thông thường, người ta gọi kháng chiến chống Nhật là “cuộc kháng chiến 8 năm”, tính từ 1937 đến 1945 – tức từ khi kháng chiến toàn diện bùng nổ cho đến khi Nhật đầu hàng. Tuy nhiên, hiện nay Trung Cộng lại cố ý đổi thành “14 năm kháng chiến”, kéo thời gian bắt đầu về năm 1931, để mở rộng vai trò lịch sử của mình. Nhưng việc kéo dài thời gian như vậy lại càng phơi bày sự thật rằng Trung Cộng mãi đến rất muộn mới tham gia kháng Nhật – nếu tính từ năm 1931, thì đến tận 1938 Trung Cộng mới có “Luận về chiến tranh trường kỳ”, nghĩa là họ chỉ tham gia một nửa cuộc chiến, càng khiến vai trò thêm đáng ngờ.

Cái gọi là “Luận về chiến tranh trường kỳ” thực chất mang một ẩn ý quan trọng: đó là thừa nhận rằng không thể thắng nổi, chỉ có thể cầm cự và tiêu hao. Chiến tranh Nga – Ukraine hiện nay chính là một ví dụ rõ ràng, Ukraine không có ưu thế, không thể tự đánh bại Nga, mà còn phải dựa vào viện trợ từ Mỹ và NATO, mới có thể duy trì thế giằng co trên chiến trường.

Trong kháng chiến Trung – Nhật, tương quan lực lượng giữa Nhật và Trung Quốc chênh lệch quá lớn, quân đội Trung Quốc rất khó giữ được thế cân bằng tại các vùng đồng bằng phía Đông và Trung. Vì thế, phải rút lui về các vùng đồi núi phía Tây – Trung, mới có thể dựa vào địa hình để cố thủ, dần dần ổn định lại trận tuyến.

Khi ấy, Chính phủ Quốc dân giống như Ukraine ngày nay, nếu không có Mỹ giúp đỡ, lập tức sẽ lâm vào thế bị động trên chiến trường. Tổng thống Ukraine Zelensky ngày nay cũng đang làm điều giống như Tống Mỹ Linh trước kia – là không ngừng vận động Mỹ viện trợ.

“Chiến tranh trường kỳ” – về cơ bản, hầu hết mọi người lúc đó đều hiểu, Trung Quốc không đủ sức tự đánh bại Nhật Bản, cũng giống như Ukraine không thể đơn độc đánh bại Nga hiện nay. Do đó, Trung Cộng tâng bốc “Luận về chiến tranh trường kỳ” như một lý luận vĩ đại là hoàn toàn phi lý, vì thực chất chỉ là thừa nhận sự thật rằng không thể chiến thắng. Nhưng mưu đồ hiểm độc hơn của Trung Cộng là muốn Quốc quân đấu trực diện với Nhật để bị tiêu hao, còn Hồng quân của họ thì tìm mọi cách bảo toàn lực lượng.

Để che mắt dư luận, Trung Cộng cố tình phóng đại vai trò của “chiến trường phía sau địch”“chiến tranh du kích”, nhưng nếu nhìn vào cuộc chiến Ukraine hiện nay, có thể thấy rất rõ: các cuộc đối đầu trực diện giữa quân chính quy mới là yếu tố then chốt trên chiến trường. Trong các vùng bị Nga chiếm đóng, dù có người Ukraine tiến hành kháng chiến du kích, nhưng không thể khiến Nga rút lui.

Năm xưa, quân Mỹ áp sát lãnh thổ Nhật, rồi thả bom nguyên tử, buộc Nhật phải đầu hàng vô điều kiện, từ đó Trung Quốc mới trở thành nước thắng trận, mới có thể nói là giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến. Chính Mỹ đã đánh bại Nhật Bản, còn Trung Quốc nếu chỉ dựa vào sức mình, thì không thể chiến thắng. Ukraine ngày nay cũng phải dựa vào Mỹ, mới có hy vọng buộc Nga ngừng chiến, đó là sự thật do tương quan sức mạnh quyết định.

Phong trào “Chỉnh đốn Diên An” trong thời kỳ kháng chiến

Bài viết trên Nhân dân Nhật báo cho biết, vào năm 1938, Trung Cộng đã xác lập vị trí lãnh đạo của Mao Trạch Đông, đồng thời “giải quyết vấn đề lãnh đạo thống nhất trong đảng”. Mỗi khi tuyên truyền về kháng chiến, Trung Cộng luôn nhắc đến đoạn lịch sử này. Điều đó cũng có nghĩa là, khi Chính phủ Quốc dân đang toàn lực kháng chiến, thì Trung Cộng vẫn đang bận rộn với cuộc đấu tranh quyền lực nội bộ.

Vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến, cũng là giai đoạn gian khổ nhất, Trung Cộng lại phát động phong trào “Chỉnh đốn Diên An” năm 1942, kéo dài đến năm 1945. Trong suốt thời kỳ đó, nhiều thanh niên bị lừa gạt đến Diên An đã phải chịu đau khổ, và về sau đều vô cùng hối hận. Có thể nói, trong phần lớn thời gian của cuộc kháng chiến, Trung Cộng đều mải mê với các cuộc thanh trừng nội bộ, bao gồm cả cha của Tổng Bí thư hiện tại – Tập Trọng Huân.

Tập Trọng Huân vốn là một công thần khai sáng căn cứ địa Thiểm Bắc, nhưng khi trung ương đến tranh quyền đoạt đất, phe địa phương như ông không địch lại, bị hất ra rìa. Tuy Tập Trọng Huân may mắn giữ được mạng, nhưng trong Cách mạng Văn hóa, những chuyện cũ bị khơi lại, ông vẫn không tránh khỏi bị hại thêm một lần nữa.

Hiện nay, sau 13 năm thanh trừng nội bộ, Trung Cộng tiếp tục rơi vào vòng xoáy tranh giành quyền lực sâu sắc, và quân đội cũng không thể tránh khỏi bị liên lụy. Trung Cộng hiện xem Mỹ – quốc gia từng giúp Trung Quốc kháng Nhật – là kẻ thù số một, nhưng vì khủng hoảng nội bộ nghiêm trọng, mâu thuẫn với Mỹ buộc phải tạm gác lại. Giải quyết khủng hoảng quyền lực và khủng hoảng chế độ trong nội bộ mới là nhiệm vụ hàng đầu lúc này, và cuộc duyệt binh được xem như một vở diễn chính trị cực kỳ quan trọng.

ĐCSTQ khó duy trì quyền lực chỉ bằng duyệt binh

Ngày 21/8, Tân Hoa Xã đăng bài viết “Phân tích chi tiết các sắp xếp liên quan đến lễ duyệt binh kỷ niệm 80 năm chiến thắng kháng chiến”. Bài viết giải thích ba tầng ý nghĩa của buổi duyệt binh lần này: ý nghĩa đầu tiên là “tuyên bố quân đội phải nghe lệnh Đảng chỉ huy”, thứ hai mới là “kỷ niệm chiến thắng kháng Nhật”, và thứ ba là “phô diễn sức mạnh quân sự”.

Dưới danh nghĩa kỷ niệm chiến thắng kháng Nhật để tổ chức duyệt binh, nhưng điều Trung Cộng quan tâm nhất lại là mức độ trung thành của quân đội đối với Đảng. Sau khi chiếm được chính quyền bằng bạo lực năm 1949, Trung Cộng luôn tuyên bố rằng “chính quyền sinh ra từ họng súng”, và mỗi lần thay đổi quyền lực cấp cao đều đi kèm với cuộc thanh trừng trong quân đội.

Trong suốt 13 năm qua, các tướng lĩnh quân đội Trung Cộng bị thanh trừng với mức độ chưa từng có, nhưng tham nhũng vẫn không bị dẹp bỏ. Thậm chí, người đứng đầu Trung Cộng hiện tại cũng không thật sự kiểm soát được quân đội, bởi chính những người thân cận mà ông ta đưa lên lại bị thanh trừng tiếp.

Hiện nay, nguy cơ lớn nhất mà quân đội Trung Cộng đối mặt không còn là vấn đề “ai nắm quyền” hay “còn khả năng tác chiến hay không”, mà là: liệu vai trò “quân đội bảo vệ Đảng” còn trụ vững được hay không. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của chính quyền Trung Cộng. Trong bối cảnh đó, buổi duyệt binh lần này không hề giấu giếm việc lấy “Đảng chỉ huy súng” làm mục tiêu số một, thực chất là một màn trình diễn chính trị nhằm bảo vệ Đảng, cố gắng thuyết phục người dân rằng chế độ vẫn còn vững chắc.

Đồng thời, Trung Cộng cũng muốn gửi thông điệp ra thế giới rằng họ vẫn có thể dùng quân đội để đe dọa và ràng buộc người dân Trung Quốc, và từ đó ép buộc các quốc gia khác tiếp tục công nhận tính hợp pháp trong cầm quyền của mình.

Tuy nhiên, chính điều đó lại cho thấy Trung Cộng đang cực kỳ bấp bênh, và Trung Nam Hải đang cần những màn diễn như duyệt binh để che giấu nỗi lo sợ. Sau 76 năm cầm quyền, mà vẫn còn phải lo lắng xem quân đội có thật sự “nghe lời” hay không, thì đủ thấy việc duy trì chế độ đã cực kỳ chật vật.

Hiện nay, trên thế giới, chỉ còn một số rất ít các quốc gia có tình trạng tương tự như: Triều Tiên, Iran, Cuba, còn đa số các quốc gia văn minh không cần phải duyệt binh để thể hiện quyền lực. Quân đội là để phục vụ quốc gia và nhân dân, trung thành với Tổng tư lệnh hợp pháp của đất nước là điều đương nhiên. Nhưng Trung Cộng lại xem quân đội là “đảng vệ quân”, phục vụ cho tầng lớp đặc quyền của Đảng, và chính vai trò méo mó này đã khiến họ luôn bất an, và khó mà duy trì lâu dài.

Để chuẩn bị cho buổi duyệt binh lần này, Trung Cộng đã diễn tập đến ba lần, điều này phơi bày sự lo lắng tột độ của Trung Nam Hải, bởi chỉ cần một sai sót nhỏ cũng có thể trở thành trò cười chính trị và gây ra khủng hoảng mới.

Trung Cộng cần hàng chục ngàn binh lính diễu hành bước đều qua quảng trường Thiên An Môn, để chứng minh rằng họ vẫn kiểm soát được quân đội và quyền lực. Thế nhưng, quân đội biết đi đều không có nghĩa là trung thành, và biết đi đều cũng không có nghĩa là biết đánh trận. Nếu quân đội dành quá nhiều thời gian tập đi đều, thì không còn thời gian để huấn luyện tác chiến thực tế.

Trung Cộng không thể kéo dài tuổi thọ chế độ chỉ bằng các màn duyệt binh. Màn trình diễn chính trị đầy cực nhọc này đã sớm bị lộ tẩy. Trung Cộng dựa vào cuộc xâm lược của Nhật Bản để bảo toàn sinh mạng, rồi lại nhờ Liên Xô và quân đội Nhật Bản đầu hàng để đánh Quốc Dân Đảng, cướp chính quyền, từ đầu đến cuối chỉ là tay sai cho thế lực phản Hoa, là kẻ bán nước. Nay lại định lợi dụng kỷ niệm kháng chiến để tuyên truyền, nhưng lỗ hổng trong thông tin quá nhiều, chỉ càng khiến người dân nhận rõ sự thật!

Theo Epoch Times