Chim Nhạn trong đời sống tinh thần của người xưa
- An Hòa
- •
Trong văn hóa truyền thống, chim Nhạn là loài chim sở hữu năm đức tính: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Chúng là tín vật có ý nghĩa đặc biệt và là biểu tượng của nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.
Thời cổ đại, chim Nhạn được được coi là biểu tượng của sự may mắn. Thời kỳ Tiên Tần, chim Nhạn xuất hiện trong “Kinh Thi. Tiểu Nhã. Hồng Nhạn”. Hình ảnh của chúng thường xuất hiện trên các vật đồ gốm, đồ đồng, đồ sơn mài và đồ ngọc.
Trong tác phẩm Thủy Hử, khi Yến Thanh bắn chim Nhạn ở bến đò Thu Lâm, Tống Giang đã có lời bình như sau: “Loài chim này có năm đức tính: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Khi nhìn thấy một con chim Nhạn bị chết ở trên bầu trời, chúng kêu gào thảm thiết, đây là nhân. Khi một con mất đi bạn đồng hành của mình, con còn lại sẽ sống cả đời mà không kết đôi với con khác, đây là nghĩa. Chúng bay theo tứ tự, không vượt lên trước, đây là lễ. Để tránh bị săn bắt, chim Nhạn có phân công rõ ràng, thông minh sắc sảo, đề phòng nghiêm ngặt, đây là trí. Cứ đến mùa thu chim Nhạn bay về phương nam, mùa xuân lại bay về phương bắc, không bao giờ thay đổi, đây là tín. Loài chim có đầy đủ ngũ thường như vậy, sao có thể nhẫn tâm làm hại chúng”. Vì vậy, người xưa còn gọi loài chim này là “Ngũ đức chi điểu”.
Chim Nhạn là loài động vật đại biểu cho sự trung trinh của tình yêu. Chính vì thế từ thời nhà Chu, chim Nhạn đã trở thành tín vật quan trọng nhất trong hôn lễ. Vào thời Tây Chu, nghi thức trong quá trình kết hôn được gọi là “Lục lễ”, phải trải qua các bước: Nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, thỉnh kỳ, thân nghênh. Sau quá trình này thì hôn nhân mới chính thức được xác lập. Trong sáu nghi lễ này, có năm nghi lễ sử dụng chim Nhạn, cho thấy ý nghĩa đặc biệt của chim Nhạn trong hôn lễ.
Ví dụ, trong “Nghi lễ. Sĩ hôn lễ” viết rằng: “Hôn lễ, hạ đạt nạp thái. Dụng nhạn”, nghĩa là trong hôn lễ, trước tiên nhà trai nhờ người đến nhà gái cầu thân, thực hiện lễ nạp thái. Dùng chim Nhạn làm lễ vật. Cụ thể, nhà trai sau khi chọn được ý trung nhân, việc trước tiên là nhờ người làm mai đến nhà gái để cầu thân. Sau khi nhà gái đồng ý, nhà trai chuẩn bị lễ vật cầu hôn. Lúc đầu, công khanh dùng dê con, đại phu dùng chim nhạn, sĩ dùng chim trĩ, về sau thống nhất đều dùng chim Nhạn.
Chim Nhạn còn được dùng để bày tỏ nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Bởi vì đây là loài chim di trú, chúng di cư theo sự thay đổi của các mùa, bay về phương bắc vào mùa xuân và bay về phương nam vào mùa thu. Khi các mùa thay đổi, đó là thời điểm chim Nhạn bay trở về tổ của mình. Đặc điểm này thường gợi lên nỗi nhớ nhà da diết của những người tha hương đang sinh ống ở vùng đất xa lạ. Chính vì vậy các nhà thơ xưa thường sử dụng chim Nhạn để diễn tả nỗi nhớ nhà.
Tiết Đạo Hành, thi nhân nước Tuỳ đời Nam Bắc triều đã viết trong “Nhân nhật tư quy”: “Nhập xuân tài thất nhật, li gia dĩ nhị niên. Nhân quy lạc nhạn hậu, tư phát tại hoa tiền”, ý nói tác giả muốn trở về quê hương sau vài năm xa cách, nhưng nay chim Nhạn đã bay về rồi mà tác giả vẫn còn chưa về được.
Thi nhân Âu Dương Tu cũng viết trong bài “Hí đáp Nguyên Chẩn”: “Dạ văn quy nhạn sinh tương tư”, ý nói đêm về nghe tiếng chim Nhạn sinh ra nỗi nhớ nhà.
Cổ nhân còn dùng chim Nhạn để gửi thư. Trong “Hán thư. Tô Vũ truyện” có nói đến việc Tô Vũ đi sứ Hung Nô, bị giữ lại. Hung Nô nhiều lần uy hiếp, dụ dỗ, muốn ông đầu hàng, nhưng ông kiên quyết không chịu. Về sau ông bị đưa đến Bắc Hải chăn dê, Hung Nô bảo rằng khi nào dê đực sinh con ông mới được thả về. Trải qua 19 năm gian khổ ông vẫn bất khuất thủ tiết. Truyền thuyết kể rằng, khi sứ nhà Hán bắn rơi một con chim nhạn từ phương bắc bay đến, nơi chân chim có buộc một phong thư, đó là thư của Tô Vũ. Biết được tin Tô Vũ còn sống, nhà Hán đòi Hung Nô đưa Tô Vũ trở về.
Theo Vision Times tiếng Trung
Tác giả: Vương Hiểu Hồng
An Hòa biên tập
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ khóa hôn nhân Chung thủy Ngũ thường
