Đạo làm quan: Cứu trợ dân trong thiên tai
- Xuân Thu
- •
Phần Châu Ngữ, sách Quốc Ngữ có viết: “Cổ giả Thiên giáng tai lệ”, nghĩa là xưa kia, Trời giáng tai họa. Sách Xuân Thu Tả Truyện có chép: “Lửa của con người gọi là lửa, lửa của Trời gọi là thiên tai”. Sách Xuân Thu Phồn Lộ có viết rằng bởi vì vương đạo quân thần trong nhân gian không hợp với Thiên Đạo nên dẫn đến Trời xuất hiện dị tượng, Trời giáng thiên tai, dị tượng cho nhân gian, nếu không hối lỗi thì sẽ giáng tai họa càng lớn hơn. Vì vậy, mỗi khi gặp lúc có thiên tai thì các quan thời cổ đại coi việc cứu tế nhân đức là quan trọng hàng đầu.
Lưu Hoán thu mua trâu cày
Những năm Trị Bình thời Tống Anh Tông, Hà Bắc xảy ra thiên tai mất mùa, sau thiên tai là động đất lớn, cả năm là năm hung. Trong nhà người dân đã hết lương thực, nạn đói hoành hành, mọi người không còn cách nào, đành phải đem trâu cày của nhà mình đi bán, đổi lấy một ít lương thực để qua ngày.
Khi đó Lưu Hoán làm tri châu Thiền Châu, ông bèn lấy toàn bộ tiền của trong ngân khố tri phủ ra mua toàn bộ trâu cày của người dân vùng thiên tai.
Đến năm sau, dân vùng thiên tai lưu tán khắp nơi đều đã quay trở về, nhưng nhà nào cũng không có trâu cày, giá cả trâu cày tăng gấp 10 lần. Lưu Hoán bèn đem những con trâu đã mua bán lại như giá gốc. Năm đó, các châu của tỉnh Hà Bắc chỉ có người dân Thiền Châu không phải bỏ nhà lưu lạc.
Triệu Thanh Hiến bình ổn giá gạo
Những năm Hy Ninh thời Tống Thần Tông, khu vực Lưỡng Chiết bị hạn hán và nạn châu chấu, lương thực thất thu, các nơi đều xảy ra nạn đói. Giá gạo cao ngất, người dân không đủ tiền mua gạo ăn thì chết đói.
Quan lại các châu đều dán bảng thông báo của quan phủ ở trên những con đường trọng yếu, thưởng những người tố cáo kẻ đẩy giá gạo cao. Quan phủ bắt được đều nghiêm trị.
Khi đó Triệu Thanh Hiến làm tri châu Việt Châu, hịch văn ông dán thông báo lại là bảo những người tồn trữ gạo trong thiên hạ rằng quan phủ thu mua số gạo đó giá cao, thế là thương gia gạo các nơi đều tụ tập đến Việt Châu để cung cấp gạo. Gạo trên thị trường lập tức phong phú, giá cả cũng rất nhanh chóng hạ thấp xuống.
Chu Hy sáng tạo “xã thương pháp”
Năm Càn Đạo thứ tư đời Tống Hiếu Tông, các nơi xảy ra mất mùa, Chu Hy cầu cứu châu phủ, mượn được 600 thạch gạo Thường Bình để cứu tế, đối phó với tình trạng khẩn cấp. Người dân thiếu lương thực thì có thể mượn thóc gạo ở xã thương (kho của quan phủ) vào mùa hè, đến mùa đông trả lại cộng thêm lợi tức. Khi có nạn đói thì hoàn toàn miễn lợi tức.
14 năm sau, 600 thạch lương thực đều đã được trả lại hết cho châu phủ, ngoài ra còn dự trữ 3100 thạch, những lương thực dự trữ này không thu lợi tức nữa. Nếu nông nghiệp mất mùa hoặc gặp nạn đói thì người dân cũng không còn phải lo lắng không có cơm ăn nữa.
Thế là Tống Hiếu Tông liền hạ chiếu cho các nơi trên toàn quốc thực hiện “xã thương pháp” của Chu Hy.
Trần Tế Nham chăm lo cho dân
Năm Kỷ Tị niên hiệu Vạn Lịch đời Minh Thần Tông đã xảy ra lũ lụt lớn, Trần Tế Nham khi đó là tri phủ Khai Châu. Các quan lại trong phủ cùng bàn bạc biện pháp cứu tế. Trần Tế Nham đề nghị cấp cho những người nghèo nhất 1 thạch ngũ cốc, những người nghèo thứ hai là 5 đấu, để người dân đều được cứu tế.
Trần Tế Nham lệnh cho thuộc hạ đánh số người dân khu vực thiên tai, mọi người xếp hàng theo số hiệu lĩnh ngũ cốc. Trần Tế Nham đích thân ngồi trong chiếc lều nhỏ trước cổng nhà kho cầm bút điểm danh, xem y phục dung mạo họ, đặc biệt ghi chép lại những người nghèo nhất. Tuy hàng vạn người dân bị thiên tai xếp hàng nhưng không có tranh cãi.
Mùa xuân năm Canh Ngọ, ở trên có công văn thông báo lại lần nữa cứu tế những người nghèo khó nhất. Công văn nói rằng phải dán cáo thị tìm những người dân nghèo đó. Trần Tế Nham nói không cần, ông lấy ra danh sách những người mà ông đã đánh dấu lần trước, rồi trực tiếp thông báo cho họ đến lĩnh. Người dân vô cùng kinh ngạc. Bởi vì lần trước khi lĩnh đồ cứu tế là thông báo đột xuất, mọi người đều không kịp chuẩn bị, ăn mặc và tướng mạo đều có thể nhìn ra hộ nghèo khổ là những người nào.
Cuối năm Kỷ Tỵ niên hiệu Vạn Lịch, lương thực trong kho của Khai Châu đã phát hết, Phủ đài lệnh cho các châu huyện huy động 2000 lạng bạc còn trong các quan khố để mua ngũ cốc. Mà lúc này giá ngũ cốc đang tăng cao, mỗi thạch 6 đồng bạc. Quan phủ lệnh cho các phú hộ cung cấp ngũ cốc, quan phủ trả giá là 5 đồng, cộng thêm một chút chi phí vận chuyển và lưu kho, các phú hộ sẽ phải tổn thất 2 đồng trên mỗi thạch. Vốn là năm thiên tai, các phú hộ bản thân cũng đã bị tổn thất rất nhiều, Trần Tế Nham cân nhắc đến khả năng chịu đựng của các phú hộ có hạn, bèn thu mua một lượng ngũ cốc nhập kho, tổng cộng thu mua được 4000 thạch.
Đến mùa thu năm Canh Ngọ, hoa màu ở Khai Châu đã chín, mỗi thạch ngũ cốc chỉ hơn 3 đồng, Trần Tế Nham báo cáo lên Phủ đài huy động 2000 lạng bạc trong các quan khố thu mua lương thực, báo giá là 3 đồng, tiền trả ngay. Trong thời gian thu mua, ngũ cốc lại giảm xuống còn 2 đồng rưỡi, các hộ thấy ban đầu Trần Tế Nham không cưỡng ép thu mua, nên tới đề xuất Trần Tế Nham khấu trừ nửa đồng này. Trần Tế Nham cười, vẫn trả các phú hộ 3 đồng một thạch. Kết quả Khai Châu không những hoàn thành định mức, mà còn dư ra hơn 700 thạch lương thực. Trần Tế Nham bèn đem số lương thực dư ra này phân phát cho người dân nghèo trở về quê hương phục hồi sản xuất.
Do lũ lụt mấy năm liền, tường thành bằng đất của Khai Châu sụp đổ hơn chục chỗ, quan phủ thương nghị thi công sửa chữa, có người nói là trưng dụng người dân phục dịch. Trần Tế Nham không đồng ý, ông cho rằng như thế quá nhọc sức dân tốn kém tiền của. Ông lệnh cho thuộc hạ dán cáo thị 4 phía cổng thành, thông báo những người dân lưu vong ở vùng xa hồi hương làm nông nghiệp, miễn thuế ruộng, quan phủ còn cấp ngũ cốc cứu tế. Một truyền mười, mười truyền trăm, rất nhiều người đã trở về.
Dân nghèo hồi hương tới tấp đem bao đi lĩnh lương thực, Trần Tế Nham sai người dán nhiều bảng cáo thị nhỏ: Người lĩnh ngũ cốc cần dùng bao của mình đựng đất đến chỗ tường thành đổ bồi đắp, tổng quản sẽ đóng dấu lên chiếc bao đó, sau đó đem bao đóng dấu đó đi lĩnh ngũ cốc. Như thế, khi công tác cứu trợ hoàn thành thì tường thành cũng đã sửa chữa xong, mà chi phí tài chính của Khai Châu không hề tăng.
Tô Thức xây dựng “Tô Công đê”
Tô Thức khi làm Thái thú Hàng Châu đúng lúc gặp đại hạn, mùa màng thất thu, khi đó lại có dịch bệnh hoành hành. Tô Thức tấu lên triều đình xin miễn trừ một phần ba số lương thực nộp lên trên, giá gạo liền hạ xuống. Tô Thức lại tâu lên triều đình ban mấy trăm giấy phép có thể xuất gia làm tăng nhân, dùng để đổi lấy lương thực cứu tế người dân đang bị đói, bởi vì tăng lữ không phải nộp thuế cho triều đình. Mùa xuân năm sau, Tô Thức đem thóc trong kho bán ra cho dân với giá thấp, dân chúng đã tránh được nạn đói.
Thời Bạch Cư Dị triều Đường đã từng đưa nước Tây Hồ ở Hàng Châu dẫn vào sông đào, rồi lại dẫn nước sông đào tưới cho hàng ngàn khoảnh ruộng nông nghiệp, nhưng cỏ nước trong nước Tây Hồ quá nhiều, mỗi năm đều cần khơi thông dòng, nên từ đời Tống về sau thì bỏ không quản nữa. Sông đào mất đi nguồn nước Tây Hồ nên chỉ dựa vào nước triều lên từ sông Trường Giang, nhưng nước triều nhiều bùn, khi thuyền bè qua lại khu thành phố thì cứ 3 năm cần khơi thông dòng chảy một lần, vì vậy trở thành mối họa lớn cho người dân thành phố Hàng Châu.
Sau khi nhậm chức, Tô Thức phái người khơi thông sông đào Mao Sơn và sông Diêm Kiều, rồi lại xây dựng cống, khống chế sự dự trữ và xả nước Tây Hồ, như thế nước biển thủy triều không chảy vào khu đô thị.
Nhưng cỏ nước và bùn trong Tây Hồ thì làm thế nào? Ngoài giờ làm việc ra, Tô Thức thường xuyên đến bên Tây Hồ quan sát suy xét. Sau này ông nghĩ ra một biện pháp, đem cỏ nước và bùn chất đống ở giữa hồ, hình thành một con đê xuyên qua mặt hồ, khiến hai bờ bắc nam nối thông trực tiếp với nhau, tạo thuận lợi cho người qua lại. Ruộng đất xung quanh hồ có thể khai khẩn trồng mạch, lợi nhuận có được dùng làm quỹ xây đê dài và cải thiện Tây Hồ.
Thế là ông dùng tiền và lương thực còn dư sau khi cứu tế năm mất mùa, cộng thêm 100 giấy phép tăng nhân, chiêu mộ người trồng mạch. Sau khi con đê dài hoàn thành, trên đê trồng phù dung, dương liễu, cảnh sắc như trong tranh, người Hàng Châu gọi nó là “Tô Công đê”.
Theo “Năm câu chuyện về nền chính trị nhân đức của quan thời xưa trong những năm thiên tai“
Đăng trên Minghui.org
Tác giả: Xuân Thu
Xem thêm:
- Đạo làm quan thời xưa: Lấy đức phục người, dùng đức giáo hóa
- Đạo làm quan: Dùng mạng sống nói lời công đạo
Mời xem video:
Từ khóa đạo làm quan