Hà Tông Huân là vị Bảng nhãn nổi tiếng thời Lê Trung Hưng. Trải qua 5 đời vua Lê, ông được xem là vị quan chính trực và công minh, là tấm gương cho học trò của ông noi theo. Cũng có nhiều giai thoại về ông được lưu truyền trong dân gian.

Đối đáp với quan giám khảo

Hà Tông Huân hành xử đều có chuẩn mực của mình, tương truyền ông mới 15 tuổi đã đỗ kỳ thi Hương. Nhưng trước kỳ thi này còn có một kỳ thi sát hạch ở địa phương.

Vị quan giám khảo kỳ thi này cũng có tên là Huân, vì vậy khi xướng danh, người xướng danh vì muốn nịnh quan nên đọc tên của Hà Tông Huân chệch đi thành Hà Tông Hươu. Hà Tông Huân liền tiến đến yêu cầu phải đọc lại cho đúng tên mình. Người xướng danh tức tối đành phải đọc lại cho đúng, nhưng sau đó kể lại với viên giám khảo.

Vào phòng thi viên giám khảo nọ muốn đánh rớt Hà Tông Huân nên cố ý ra vế đối khó “Lạn Tương Như, Tư Mã Tương Như”, vế đối này có hai người cùng tên Tương Như, nhưng một nhân vật thời Chiến Quốc, một nhân vật thời nhà Hán. Ý của câu đối là ta và ngươi cùng tên Huân nhưng ở địa vị khác nhau, ta là giám khảo còn người chỉ là người đi khảo thí.

Không ngờ Hà Tông Huân đối liền “Ngụy Vô Kỵ, Trưởng Tôn Vô Kỵ”, đây là hai nhân vật cùng tên Vô Kỵ, nhưng một thời Chiến Quốc và một thời Đường. Ngoài ra “Vô Kỵ” nghĩa là không có úy kỵ, ý muốn nói dù hai người cùng tên nhưng không có gì phải kỵ.

Viên giám khảo thấy không làm khó được thì ra tiếp câu đối: “Xỉ tính cương, thiệt tính nhu, cương tính bất như nhu tính cửu” (nghĩa là răng vốn rắn, lưỡi vốn mềm, tính rắn sao bằng tính mềm cho lâu bền).

Hà Tông Huân đối rằng: “Mi sinh tiền, tu sinh hậu, tiền sinh bất nhược hậu sinh trường” (nghĩa là lông mi sinh trước, râu sinh sau. Sinh trước chẳng dài bằng sinh sau).

Vài câu chuyện quan lại thời xưa phá án kỳ tài
Giải phạm nhân. (Tranh minh họa: Tranh khắc gỗ của H. Thiriat, 1889, dựa trên C.-E. Hocquard, Wellcome Collection, Public Domain)

Xét xử vụ án nổi tiếng khắp nước, giải oan cho dân làng

Khi Hà Tông Huân giữ chức Tham tụng đầu triều (tương đương Tể tướng), ông thường bên cạnh Chúa xử lý các việc cơ mật. Bấy giờ có một vụ án khó khăn, và cũng nổi tiếng khắp nước. Sách “Sơn cư tạp thuật” là tài liệu duy nhất có ghi chép lại diễn biến vụ án phức tạp này.

Vào thời vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Doanh, người dân làng Phùng Xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây đang tất bật thu hoạch ngô thì phát hiện một bộ xương người, với chiếc áo chưa phân huỷ hết. Đây là chiếc áo của một anh lính, trên áo có ghi tên người đã chết.

Quan lại ở nha môn địa phương tra xác thực được anh lính này là người làng khác cũng ở huyện Thạch Thất, đang làm nghĩa ở Kinh đô Thăng Long, mấy tháng trước đã xin nghỉ phép về thăm nhà nhưng rồi không thấy quay trở lại.

Người vợ anh lính hay tin chồng chết thì một mực cho rằng người dân ở làng Phùng Xá đã giết chồng mình, nên làm đơn kiện lên quan. Một người đỗ sinh đồ cùng làng với hai vợ chồng cũng kêu oan đến tận trấn Sơn Tây.

Quan Trấn thủ Sơn Tây bắt dân làng Phùng Xá tra khảo, dân làng không nhận tội nhưng lại không nêu được bằng chứng ngoại phạm, trong khi người lính chết ngay trên địa bàn làng của mình. Cuối cùng trước sự bức bách của quan Trấn thủ Sơn Tây họ đành liều nhận tội rồi lên Kinh thành kêu oan.

Phủ Chúa tiếp nhận cáo trạng, nhận thấy vụ án nghiêm trọng, liên quan đến lòng dân, quan địa phương dù đã xử nhưng dân thấy không thỏa đáng. Chúa giao cho Tham tụng Hà Trọng Huân phụ trách xử lý án này, Nguyễn Nghiễm (cha của đại thi hào Nguyễn Du) làm Bồi thẩm trợ giúp Hà Tông Huân.

Cả hai người cùng xem lại hồ sơ vụ án mà các quan ở địa phương đã xử. Nguyễn Nghiễm cho rằng vụ án đã xử theo đúng phép nước, án đã tuyên không có gì phải xem lại nữa, nên không xem tiếp, cũng không muốn thay đổi án các quan địa phương đã xử.

Nhưng Hà Tông Huân thì cứ xem đi xem lại để xem có tình tiết nào đáng chú ý, đêm đã khuya thì ngủ thiếp đi, trong mơ ông thấy có cụ già đến nói chắc nịch rằng “Thủ phạm ở đây. Dân làng mắc oan. Ông hãy làm sáng tỏ việc này đi”.

Tỉnh dậy Hà Tông Huân quyết định tự mình tra xét lại vụ án, bắt đầu hỏi những người có liên quan. Nhận thấy viên sinh đồ nọ rất muốn khiếu kiện, lại thân thiết với người vợ, ông liền cho gọi cả 2 người đến hỏi họ có quen biết nhau trước đây không, nhưng hai người nói không biết nhau. Viên sinh đồ nói vì đồng hương lại gặp người phụ nữ có chuyện oan khuất, mình lại biết chữ nên tình nguyện giúp làm đơn đi khiếu kiện.

Dù thế Hà Tông Huân vẫn nghi ngờ, liền tạm giam hai người lại rồi dặn người theo dõi họ thì phát hiện tối đến họ nằm gần nhau ngủ như vợ chồng.

Nghi ngờ hai người này có gian tình rồi giết anh lính, Hà Tông Huân cho người điều tra sự việc thì biết thời điểm anh lính xin nghỉ phép và đi về nhà rất gần với thời điểm viên sinh đồ nọ rời làng đi.

Anh lính đi về nhà phải qua làng Phùng Xá và vụ án xảy ra tại đây. Hà Tông Huân điều tra tiếp xem anh lính nghỉ ở đâu. Bà chủ trọ ở làng Phùng Xá vừa qua đời, nhưng cô con gái bà khi nhìn thấy viên sinh đồ thì nói vài tháng trước có thấy viên sinh đồ này đến quán trọ rồi gặp anh lính. Hai người cùng uống trà nói chuyện vui vẻ rồi đi ra hai hướng khác nhau.

Như vậy viên sinh đồ này và anh lính phải có quen biết nhau và viên sinh đồ cũng là người cuối cùng gặp anh lính này. Thế nhưng khi anh lính chết, viên sinh đồ lại đi khiếu kiện tìm hung thủ giết người mà giấu nhẹm chuyện có gặp anh lính.

Hà Tông Huân dựa vào cơ sở này hỏi viên sinh đồ tại sao lại giấu chuyện có quen biết và gặp anh lính ngay trước khi bị giết mà không báo. Viên sinh đồ không chối được cuối cùng phải thừa nhận chính mình đã giết chết anh lính này.

Theo lời khai của viên sinh đồ, khi anh lính chồng người phụ nữ nhập ngũ, anh ta và người vợ đã lén lút tư thông với nhau, người vợ nói chỉ có hại được người chồng này mới có thể ở bên anh ta trọn đời.

Viên sinh đồ nghe lời nên đến Kinh đô để sát hại người lính, đến làng Phùng Xá thì tình cờ gặp anh lính đang nghỉ phép cũng trên đường về quê nhà. Anh lính nhận ra người cùng làng bên bắt chuyện hỏi thăm.

Sau khi chia tay, viên sinh đồ vờ đi một quãng rồi quay sang đi theo anh lính, đến chỗ vắng thì giết chết, kéo xác vào dấu ở ruộng ngô. Mấy tháng sau thì xác anh lính bị phát hiện, viên sinh đồ bàn với người vợ làm đơn kiện dân làng Phùng Xá để tránh tội.

Sự việc được làm rõ, Hà Tông Huân sửa lại bản án mà Trấn thủ Sơn Tây đã tuyên. Tuy nhiên Nguyễn Nghiễm cho rằng bản án của Trấn thủ Sơn Tây làm là đúng theo quy tắc rồi, nếu sửa lại là trái với phép tắc của Triều đình, sẽ dẫn đến thông lệ dân chúng hễ bị xử tội là kéo đến kêu oan với Chúa, nên Nguyễn Nghiễm dứt khoát không đồng ý và không ký vào kết luận cuối cùng.

Hà Tông Huân không thuyết phục được Nguyễn Nghiễm thì đem hết sự tình và bản án đã sửa lại của mình, và bản án của Trấn thủ Sơn Tây dâng lên Chúa.

Chúa Trịnh Doanh xem hồ sơ rồi phê rằng: “Một đằng thì giữ phép tắc, còn một đằng thì xét xử theo tình hình thực tế. Cách xét xử của cả hai đều phải. Song xử án phải dựa vào thực tế, mưu gian xảo của tên Sinh đồ đã lộ rõ hết cả, nên căn cứ vào hành vi giết người mà xử tội nó thôi”.

Hà Tông Huân xử viên sinh đồ cùng ả nhân tình. Đây là vụ án rất nổi tiếng lúc đó, dân làng Phùng Xá nhờ đó mà thoát khỏi bản án oan của quan địa phương ở Sơn Tây.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: