Hàm nghĩa thâm sâu của “duyên phận” trong văn hóa truyền thống
- An Hòa
- •
Câu nói về duyên phận được biết tới nhiều nhất có lẽ là câu cổ ngữ: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”, có duyên thì xa ngàn dặm rồi cũng sẽ gặp, vô duyên thì ngay ở trước mặt cũng không biết nhau. Trong văn hóa truyền thống, khái niệm “duyên” có nội hàm và ảnh hưởng vô cùng sâu sắc.
Thông thường, “duyên” được hiểu là một cơ hội, cơ may hội ngộ, quen biết, kết thân với nhau. Cơ hội ấy là điều mà con người không biết trước được, là một chủng quan hệ tương đối lâu dài giữa người và người.
Từ “duyên” kỳ thực có xuất phát từ tín ngưỡng cổ đại. Phật gia cho rằng con người sinh sống trong lục đạo luân hồi. Nghĩa là sinh mệnh con người không chỉ có một đời, mà là có nhiều đời. Sinh mệnh này không chỉ làm người, mà có thể làm quỷ, làm súc sinh, làm người tại các tầng trời, v.v.. trong tam giới. Tam giới mà Phật gia giảng bao gồm địa ngục, nhân gian và trời, địa ngục có nhiều tầng, trời cũng là có nhiều tầng. Nhưng dẫu ở đâu thì các sinh mệnh trong tam giới đều trải qua lục đạo luân hồi. Các vị tiên trên trời cũng là có thời điểm luân hồi, giống như trong truyền thuyết Bát tiên. Một số vị Phật cũng từng trải qua rất nhiều kiếp luân hồi trước khi giải thoát, tu luyện thành Phật. Làm người thì đặc biệt hơn một chút, bởi vì mỗi lần luân hồi làm người thì lại quên mất kiếp trước của bản thân mình.
Phật gia cũng giảng rằng sự tiếp xúc giữa các sinh mệnh với nhau sẽ tạo thành “duyên”. Ví như con người sinh sống trên nhân thế là thuận theo duyên. Người nhà, người thân thích, cha mẹ, người hôn phối, bạn bè, thầy cô giáo, người quen… mọi mối quan hệ xã hội giữa người với người đều là do “duyên” mà thành. Có thể nói những người có “duyên” này là một quần thể. Nếu không có duyên phận thì hai người chỉ lướt qua nhau mà thôi, giống như sống trong hai thế giới, hai quần thể vậy.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn luôn đối diện với cái “duyên” này. Đôi khi ta gặp một số người tốt, chuyện tốt, có người trợ giúp khi khó khăn… đây được gọi là “thiện duyên”. Phật gia giảng rằng thiện duyên là do trong quá khứ chúng ta đã gieo một loại “thiện nhân”, cho nên bây giờ có được “thiện quả”.
Cũng có rất nhiều khi người ta gặp một sự việc không tốt, gặp lúc không thông thuận. Đây là bởi vì “ác duyên”. Trong luân hồi, con người quên mất mình đã từng làm việc xấu, đã từng thiếu nợ người khác nên kiếp này gặp chuyện phiền phức thì thường sinh ra tâm oán trách. Người ta gặp lúc không thông thuận thường đem nguyên nhân đổ cho tại ngoại giới, oán hận vận khí của bản thân không tốt, muốn chạy trốn. Nhưng Phật gia giảng rằng để hóa giải những ác duyên này thì không có cách nào tốt hơn là đối mặt và thiện giải.
Duyên phận khiến người với người trợ giúp hay mâu thuẫn với nhau, vì ân oán mà báo đền hay đòi hỏi nhau. Bởi vậy, Phật gia cho rằng làm người thì nên hiểu đạo lý nhân quả, nên hiểu được tri ân, báo ân, nuôi dưỡng thiện niệm.
Những sự tình và đạo lý này trong lịch sử có ghi chép lại rất nhiều, cũng là một phần tương đối trọng yếu trong lý niệm và nhân sinh của cổ nhân, chỉ là ngày nay người hiện đại không tin tưởng. Nhưng nếu chịu khó quan sát thẳng thắn chừng vài ba thế hệ ở một gia tộc nào đó trong lịch sử hay ở quanh ta, dấu vết biểu hiện của luật nhân quả và “duyên” rất khó phủ nhận. Cảm nhận một cách kỹ lưỡng, chúng ta sẽ không khó để phát hiện rằng nhân quả hiện hữu ở ngay trong cuộc sống.
Trên đây là nói về “nhân duyên”. Trong tín ngưỡng cổ xưa còn giảng về một loại duyên phận khác, có thể gọi là “Thánh duyên”, “Pháp duyên”, “Đạo duyên”, v.v.. cũng gọi là “cơ duyên”. Chính là những người vì hiểu ra ý nghĩa nhân sinh, hoặc kính ngưỡng các vị Phật, Đạo… mà nảy ra một tâm muốn tu luyện. Thời cổ đại, rất nhiều nhân sĩ nổi tiếng kỳ thực đều có duyên tu Đạo, tu Phật. Ví như Tôn Tư Mạc, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Vương Dương Minh, v.v..
Thi sĩ Bạch Cư Dị là nhà thơ nổi tiếng triều Đường. Lúc ông làm Thái thú ở Hàng Châu nghe nói hòa thượng Đạo Lâm là người đức hạnh cao, liền đến bái phỏng. Bạch Cư Dị thấy hòa thượng sống trên cây tùng cao lớn dưới núi liền nói: “Sao ngài sống ở nơi nguy hiểm quá vậy?”
Hòa thượng Đạo Lâm nói: “Nơi Thái thú sống còn nguy hiểm hơn nhiều.”
Bạch Cư Dị nghe xong không hiểu chút gì, liền nói: “Ta có gì mà nguy hiểm?”
Hòa thượng Đạo Lâm nói: “Thân ở nơi quan trường như củi lửa giao tranh, nhưng những người ở trong đó lại thường thường không hiểu được. Như thế còn không nguy hiểm sao?”
Bạch Cư Dị liền gật đầu nói phải. Sau đó, Bạch Cư Dị lại thỉnh giáo tiếp hòa thượng Đạo Lâm: “Đạo lý nhân sinh là như thế nào?”
Hòa thượng Đạo Lâm đáp: “Chớ làm các điều ác, những điều thiện nên làm.”
Bạch Cư Dị cảm thấy khó hiểu, nói: “Đạo lý này thì đứa trẻ 3 tuổi cũng biết.”
Hòa thượng Đạo Lâm đáp: “Mặc dù đứa trẻ 3 tuổi cũng biết đạo lý này, nhưng ông lão 80 tuổi cũng làm chưa xong.”
Bạch Cư Dị nghe xong, tâm phục mãi. Cũng từ đó, ông bắt đầu bước đi trên con đường tu luyện. Ông không chỉ cung kính, kiên định tu luyện mà còn nguyện ý hồng dương tín ngưỡng, mang hết bổng lộc của bản thân mời người tạc tượng Phật, in kinh Phật khuyên mọi người hướng thiện, tin tưởng nhân quả.
Duyên tu Đạo, tu Phật là chỉ những người hướng đạo, hướng thiện, cảm ngộ được chân lý nhân sinh. Bách gia chư tử thời cổ đại hầu như đều giảng về “Đạo”. Trong “Đạo Đức Kinh”, ngay mở đầu, Lão Tử cũng giảng về “Đạo”, lại nói “Đạo” mà ông nói khác với “đạo” mà người khác nói. Người xưa có câu: “Triêu văn Đạo, tịch khả tử”, sáng sớm được nghe chân Đạo thì buổi tối chết cũng an lòng. Cơ duyên giải thoát khỏi luân hồi ấy chính là vượt qua cả chuyện sống chết.
Ngày nay, trong biển người mênh mông, thế sự rối ren này, có bao nhiêu người truy tìm nơi trở về cho tâm linh của mình? Có bao nhiêu người dù đã gặp trong đường đời nhưng lại lỡ mất duyên phận của mình? Kỳ thực, duyên đến duyên đi, đôi khi chỉ cách biệt ở một niệm.
Theo Vision Times tiếng Trung
An Hòa biên tập
Xem thêm:
- Hàm ý về tu luyện trong truyện cổ tích Thạch Sanh
- Vì sao khi Đức Phật tại thế không có tượng Phật, chùa chiền, kinh sách?
Mời xem video:
Từ khóa Đạo gia Phật gia duyên phận