Cụ tổ của họ Nguyễn Gia Miêu là Nguyễn Công Duẩn là công thần khai sáng nhà Lê, các đời sau này nhiều người trung nghĩa giúp nhà Lê vượt qua khó khăn. Khi nhà Mạc cướp ngôi, họ Nguyễn Gia Miêu lại giúp nhà Lê Trung Hưng, cuối cùng được đền đáp với 9 đời chúa và 13 đời Vua.

Thái hậu Nguyễn Thị Hằng

Dân gian lưu truyền rằng khi Hoàng tử Lê Tư Thành còn lưu lạc chốn dân gian, một lần dạo bước ở bờ sông Tống Sơn (Thanh Hóa) thì thấy một người con gái đang vo gạo dưới bến. Tức cảnh sinh tình Hoàng tử bèn đọc một vế đối: “Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả…”. Câu đối đưa ra chỉ nửa chừng, cô gái cũng liền đối lại: “Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho…”.

Câu đối này cũng nửa chừng, nhưng ý nhắc chàng trai cần lo cho đời trước khi lo cho duyên. Biết cô gái là người có học, Hoàng tử thấy cảm mến, liền dò hỏi thì biết người con gái này là Nguyễn Thị Hằng, con của tướng Nguyễn Đức Trung, dòng dõi họ Nguyễn ở Gia Miêu, hậu duệ của Nguyễn Công Duẩn. Mà Nguyễn Đức Trung lại cũng quen thân với mẹ của Hoàng tử.

Hoàng tử Lê Tư Thành từ đó quen biết với Nguyễn Thị Hằng và được sự vun vén của cả hai nhà. Năm 1460 các quan tìm được Lê Tư Thành và đưa lên ngôi Vua, lấy hiệu là Lê Thánh Tông, từ đó Nguyễn Thị Hằng được Vua yêu quý nhất.

Vua Lê Thánh Tông sợ họa ngoại thích nên không phong cho ai làm Hàng hậu. Nguyễn Thị Hằng được yêu quý nhất và được phong làm Quý phi đứng đầu hậu cung.

Nguyễn Thị Hằng sinh ra Lê Tranh và được phong làm Thái tử. Năm 1497, vua Lê Thánh Tông mất, con trai của Nguyễn Thị Hằng lên nối ngôi, hiệu là Hiến Tông. Họ Nguyễn Gia Miêu ngày càng mạnh, nắm nhiều vị trí quan trọng trong Triều. Cha của Thái hậu Nguyễn Thị Hằng là Nguyễn Đức Trung được phong làm Thái úy Trình Quốc công nắm giữ quân đội.

 Năm 1504 vua Hiến Tông mất, con trai lên nối ngôi hiệu là Túc tông.

Nhưng vua Lê Túc Tông bạc mệnh, mới lên ngôi nửa năm thì không may qua đời. Vua mất khi còn rất trẻ nên chưa có con nối dõi. Nguyễn Thị Hằng muốn đưa Lã Côi Vương nối ngôi, nhưng bị nội thần Nguyễn Nhữ Vi lập mưu đưa người con thứ hai của Hiến Tông lên làm vua, hiệu là Lê Uy Mục.

Lê Uy Mục lên thay và được gọi là Quỷ Vương, đây là một trong những vị Vua tàn bạo nhất lịch sử, suốt ngày rượu chè khiến thú tính nổi lên, tàn sát những người ngay bên cạnh. Để mua vui, nhiều lúc Vua còn bắt quân lính vác gậy đánh nhau tới chết, Vua thì ngồi cười và xem đó là thú vui.

Lê Uy Mục giết hại tất cả những ai không ủng hộ mình, trong đó có cả bà nội là Thái hậu Nguyễn Thị Hằng.

Sự tàn bạo của Lê Uy Mục khiến quan lại bất bình, muôn dân oán thán, việc tước bỏ ngôi vị chỉ còn là thời gian.

Lê Tương Dực lên ngôi

Sau khi Lê Uy Mục giết cả bà nội là Nguyễn Thị Hằng thì gặp phải sự chống đối bất bình của dòng tộc. Uy Mục không dùng người trong dòng tộc nữa, để cho gia tộc bên vợ nắm hết mọi quyền hành, ngay cả họ Nguyễn Gia Miêu nhiều đời làm quan lớn cũng bị đuổi hết về Thanh Hóa.

Em của Thái hậu Nguyễn Thị Hằng Là Nguyễn Văn Lang cũng nằm trong số bị đuổi về Thanh Hóa. Có người trong tông thất là Lê Năng Can gửi thư cho Nguyễn Văn Lang nói cần tiêu diệt ác đảng Uy Mục.

Đại Việt Sử ký Toàn thư mô tả: “Văn Lang là người thông thao lược, giỏi binh pháp, khéo xem xét thiên thời, sức khoẻ có thể bắt được hổ”. Năm 1509, Văn Lang cùng con là Nguyễn Hoằng Dụ liền hiệu triệu dân Thanh Hóa cùng đồng tâm chống lại Uy Mục (vốn đã mất lòng dân), rồi cho quân đóng ở thành Tây Đô, trấn giữ cửa biển Thần Phù.

Một tông thất nhà Lê khác là Giản Tu công Lê Oanh bị bắt giam nhưng trốn thoát khỏi ngục và chạy trốn đến Thanh Hóa. Văn Lang liền tôn Lê Oanh làm minh chủ để phò lên ngôi Vua, nhiều người liền ủng hộ.

Cha con Nguyễn Văn Lang đưa quân tấn công vào Kinh thành, vua Lê Uy Mục không có ai ủng hộ nên nhanh chóng bị bắt. Lê Oanh lên ngôi, lấy hiệu là Lê Tương Dực.

Năm 1510, Vua Tương Dực luận công ban thưởng, cha con Nguyễn Văn Lang và Nguyễn Hoằng Dụ có công lớn nhất. Nguyễn Văn Lang được thăng từ tước Nghĩa quận công lên Nghĩa quốc công, nắm giữ toàn bộ quân đội. Nguyễn Hoằng Dụ được phong làm Thái phó, tước Yên Hòa hầu.

Sau khi Nguyễn Văn Lang mất thì Nguyễn Hoằng Dụ kế nghiệp cha nắm giữ binh quyền.

Nhà Lê mạt, các tướng tranh giành binh quyền

Vua Lê Tương Dực chỉ lo việc Triều chính trong một thời gian ngắn rồi sau đó lại sa đọa y như Uy Mục trước đó, khiến dân chúng lầm than, loạn quân nổi lên khắp nơi. Nhà Lê phải dựa vào các tướng dẹp loạn để tồn tại, vì thế mà các tướng thời kỳ này có rất nhiều binh quyền, làm chủ một cõi. Ngoài Nguyễn Hoằng Dụ nắm binh quyền một phương còn có Trịnh Duy Sản, Trần Chân, sau nàu còn có Nguyễn Kính, Mạc Đăng Dung…

Trong khi đó vua Lê Tương Dực ngày càng sa đọa, suốt ngày chỉ u mê tửu sắc, xây dựng Cửu Trùng Đài nguy nga, lại xâng điện Trăm Nóc, đánh sưu cao thuế nặng dân chúng để có tiền ăn chơi, nhiều người khuyên can không được.

Trong các cuộc khởi nghĩa chống Triều đình thì cuộc khởi nghĩa Trần Cảo là mạnh nhất. Năm 1516, Trần Cảo đưa quân tiến đánh Kinh thành. Trong tình thế cấp bách, tướng quân Trịnh Duy Sản cùng các quan quyết định giết Tương Dực để đưa Lê Chiêu Tông lên ngôi.

Lúc này Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở bến Bồ Đề ngăn quân Trần Cảo, đoán biết Trịnh Duy Sản giết Vua, ông phân vân giữa việc ngăn quân Trần Cảo và bảo vệ Vua. “Hoằng Dụ bảo thuộc tướng, Duy Sản tự ý giết vua này lập vua khác, tội đại nghịch ấy không thể tha, nhưng hiện giờ giặc Cảo đang ngụy xưng đế hiệu, làm loạn, bọn ta ơn vua lộc nước, là bề tôi nhà Lê, trước hết phải giết giặc Cảo, tôn phò vua mới, rồi mới hỏi tội Duy Sản sau cũng chưa muộn” (sách Địa chí huyện Hà Trung).

Vua Lê Chiêu Tông lên ngôi, tập trung các tướng tiến đánh quân Trần Cảo, nhờ đó mà thắng lợi. Khi luận công ban thưởng, An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ lập công lớn nên được phong Trừng Quốc công.

Cũng bởi việc luận công ban thưởng này mà sau đó các tướng có hiềm khích, đánh lẫn nhau. Nguyễn Hoằng Dụ đưa quân đến trấn giữ quê nhà ở Tống Sơn, Thanh Hóa. Ở Triều đình các tướng nắm binh quyền thao túng, quyền hành lấn át Vua.

Con nuôi của Trịnh Duy Sản là Trần Chân tâu với Vua đưa quân vào Thanh Hóa thu lại binh quyền của Nguyễn Hoằng Dụ. Do quân Trần Chân rất mạnh nên Nguyễn Hoằng Dụ phải rút khỏi Tống Sơn đến Thuần Hựu (các nhà nghiên cứu cho là xã Hậu Lộc ngày nay).

Quân Triều đình tàn phá Tống Sơn, đến cả mộ Nguyễn Văn Lang cũng bị đào bới. Sau khi quân Triều đình rút, Nguyễn Hoằng Dụ cho quân trở lại Tống Sơn củng cố lực lượng.

Trong khi đó tại Triều đình, các tướng vẫn vì hiềm khích mà đánh lẫn nhau. Giữa tình thế đó vua Lê Chiêu Tông phải dựa vào Võ Trạng nguyên là Mạc Đăng Dung nhằm giữ yên. Nhưng Mạc Đăng Dung ngày càng lộng hành lấn át Vua, sau này cướp ngôi nhà Lê lập ra nhà Mạc.

Tại Thanh Hóa, Nguyễn Hoàng Dụ mất năm 1518, trao binh quyền cho Nguyễn Kim.

Nguyễn Kim kế nghiệp giúp nhà Lê trung hưng

Nhiều tài liệu dẫn theo nguồn sử cho rằng Nguyễn Kim là con của Nguyễn Hoằng Dụ. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư nói rằng: “Nguyễn Kim (người Bái Trang, huyện Tống Sơn, có thuyết nói là con của Hoằng Dụ)”. Như vậy sách này dẫn lại “có thuyết nói là …” chứ không khẳng định.

Trong khi đó sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn thì cho rằng Nguyễn Kim là anh của Hoằng Dụ.

Sách “Nhìn lại lịch sử” của nhóm nghiên cứu Đinh Công Vỹ, Phan Duy Kha, Lã Duy Lan qua nghiên cứu gia phả họ Nguyễn Gia Miêu thì cho rằng: Nguyễn Văn Lang có người anh trai là Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Văn Lang sinh ra Nguyễn Hoằng Dụ, còn Nguyễn Văn Lưu sinh ra Nguyễn Kim. Như vậy Nguyễn Kim là anh họ của Nguyễn Hoằng Dụ.

nguyen kim
Miếu thờ Nguyễn Kim trong Kinh thành Huế. (Ảnh: Kiennguyen546193, Wikipedia, CC BY-SA 4.0)

Nguyễn Kim kế tục binh quyền của Nguyễn Hoằng Dụ. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê, Nguyễn Kim kế tục truyền thống họ Nguyễn Gia Miêu trung thành với nhà Lê.

Nguyễn Kim chạy sang Ai Lao (ngày nay thuộc Lào, giáp với các tỉnh miền Trung của Việt Nam) được vua Xạ Đẩu giúp đỡ, cho mượn đất Sầm Châu để dựng bản doanh, chiêu mộ quân sỹ. Nguyễn Kim tìm con cháu nhà Lê, cuối cùng tìm được Hoàng thất Lê Duy Ninh, tôn lên làm vua, hiệu là Lê Trang Tông.

Nguyễn Kim cùng con cháu của mình đánh bại nhà Mạc giúp nhà Lê Trung Hưng. Con cháu của ông 9 đời làm chúa, 13 đời làm Vua nhà Nguyễn, giúp mở rộng bờ cõi đến tận vùng cực nam như ngày nay. Họ Nguyễn Gia Miêu nhiều đời trung nghĩa với nhà Lê, dù trải qua nhiều biến cố, cuối cùng cũng được đền đáp.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: