Nghề cổ đất Việt – Kỳ 3: Tranh Đông Hồ – Phảng phất hồn Việt
- Thanh Phong
- •
Nghề truyền thống gắn liền với lịch sử phát triển văn hóa của đất nước. Qua các thời kỳ, người làm nghề hun đúc và tập hợp kinh nghiệm để làm nên bí quyết gia truyền lưu lại cho các thế hệ sau. Thừa kế những tinh hoa của các thế hệ đi trước, hậu nhân sẽ tiếp tục bảo tồn và phát huy hơn nữa những giá trị trân quý của nghề.
Làng tranh Đông Hồ xưa là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ hay còn gọi là làng Hồ nằm ven đê sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ.
Tranh Đông Hồ khá gần gũi với đại đa số người Việt, khi nhắc tới hầu như ai cũng biết đến. Nội dung tranh rất gần gũi nên nó đã đi vào thơ văn từ lâu. Ngày nay lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày Tết đã mai một đi, làng tranh cũng thay đổi nhiều. Tuy vậy, tranh Đông Hồ vẫn đóng vai trò như một di sản văn hóa, một dòng tranh dân gian không thể thiếu.
Có câu ca dao về làng Đông Hồ như sau:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh.
Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa làng chỉ cách sông một con đê, đó là ý trong câu “Có sông tắm mát có nghề làm tranh”. Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng sông nên từ đê ra đến mép nước giờ đã khá xa. Còn “làng Mái có lịch có lề” thì nghĩa là gì? Tục ngữ Việt Nam có câu: giấy rách phải giữ lấy lề. Chữ “lề” ở đây tượng trưng cho những quy tắc đạo đức của người xưa, rất trọng danh dự, khí tiết. Còn dân làng Mái, dân nghệ thuật rất trọng lời ăn tiếng nói. Không như nhiều làng quê khác, người dân làng Hồ, nhất là phụ nữ, ăn nói rất lịch lãm, trên dưới thưa gửi rất rõ ràng. Người làng kể rằng kể cả từ xưa, rất hiếm khi trong làng có tiếng người mắng chửi nhau.
Do công nghệ phát triển, tranh dân gian làng Hồ bây giờ không tiêu thụ nhiều như trước. Trước đây, các dòng họ làm tranh đã quy tụ về làng qua nhiều thế kỷ. Nhưng hiện nay chỉ còn hai gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam cùng con cháu là theo nghề tranh, góp phần gìn giữ di sản tranh Đông Hồ.
Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng ba âm lịch. Hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh, hát dân ca rất vui vẻ. Đây cũng là dịp các thế hệ trẻ tưởng nhớ lại những giá trị của một làng nghề truyền thống và gìn giữ để nó không bị mai một đi theo thời gian.
Xem thêm: Nghề cổ đất Việt – Kỳ 2: Lụa Vạn Phúc – Rộn ràng tiếng thoi đưa
Lịch sử phát triển của nghề tranh
Làng Hồ có công nghệ in tranh từ lâu lắm rồi. Cũng như nhiều làng nghề khác, gia phả làng nghề qua bao thế kỷ binh biến nên đã thất lạc, không còn giữ được. Cho đến nay, mất bao công sức khảo cứu, người ta cũng chưa biết ông tổ nghề in tranh ở nước ta là ai hay nghề in tranh có từ bao giờ.
Nghề làm tranh Đông Hồ có liên hệ mật thiết với kỹ thuật làm giấy, khắc ván, và khắc gỗ tranh. Theo sử sách, người Việt đã biết làm một thứ giấy gọi là mật hương vào thế kỷ thứ III. Nghề khắc ván theo một số sử sách ghi lại cũng có từ thế kỷ XI, XII. Trong các dòng tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam thì tranh Đông Hồ xuất sinh từ làng Đông Hồ Bắc Ninh là được nhắc đến nhiều hơn cả. Thời kỳ thịnh vượng nhất của tranh Đông Hồ là vào thế kỷ XVII, XVIII.
Tranh Đông Hồ còn được người ta gọi bằng cái tên nôm na, thân mật hơn là tranh Tết, bởi nó được sản xuất và bán vào dịp Tết Âm lịch cho khắp nơi ở chợ quê. Vào những ngày tết, mọi nhà đều có tranh treo, màu sắc của tranh tưng bừng, nhộn nhịp như niềm vui, niền hân hoan rạo rực trong không khí tết đầu năm.
Về đề tài vẽ, tranh Đông Hồ có loại tranh chúc tụng, ví dụ như đàn gà là ước cho ai nấy đều xum xuê con cháu; đứa bé ôm con gà là vinh hoa, ôm con vịt là phú quý. Bên cạnh đó là tranh sinh hoạt: đánh vật, đánh đu… Rồi tranh lịch sử như Bà Trưng, Phù Đổng Thiên Vương, Ngô Quyền… Tranh truyện như Kiều, Thạch Sanh. Lại còn có loại tranh thờ, vế đối rất đa dạng và phong phú.
Theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu sắc tươi thắm như tranh cổ. Nguyên nhân là người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh, màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại màu công nghiệp. Ngoài ra, các bản khắc mới có bản không được tinh tế như bản cổ. Một điểm đáng lưu ý khác nữa là một số bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán hoặc chữ Nôm bên cạnh phần hình của tranh khiến tranh ít nhiều thiếu đi cái gì đó truyền thống mà người xưa để lại.
Kỹ thuật làm tranh
Để hoàn thiện một bức tranh Đông Hồ cần rất nhiều thời gian. Một người thợ thủ công giỏi phải phụ trách từ việc làm mực từ nguyên liệu thiên nhiên, chọn giấy, làm khuôn, in tranh. Đặc sắc nhất là màu mực: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của nó; màu xanh lấy từ vỏ và lá của tràm; màu vàng lấy từ hoa hòe; màu đỏ thắm lấy từ thân, rễ cây vang; màu trắng là bột điệp được làm từ vỏ sò… Những chất màu thô này được trộn với nhau và hoà với một lượng bột nếp trước khi in để tạo một lớp hồ, làm cho giấy tranh cứng hơn sau khi phơi khô.
Khuôn tranh Đông Hồ được khắc trên ván gỗ, trước hết là một bản nét, rồi tranh có bao nhiêu sắc thì thêm bấy nhiêu bản màu.
Nền tranh là giấy dó, làm bằng vỏ cây dó, phết lên một lớp điệp một màu óng bạc, bột điệp được tán từ một loại vỏ sò. Loại giấy này được sản xuất theo lối thủ công thường được lấy từ làng Đông Cảo – Bắc Ninh hay làng Bưởi – Hà Nội về, cắt thành nhiều cỡ, nhỏ nhất là 11cm x 12cm, lớn nhất là 22cm x 31cm.
Những chiếc chổi lông dùng để phết giấy và khuôn in cũng được làm bằng lá cây Vân sam dát phẳng. Tranh được vẽ bằng cách bôi màu vào bản khắc gỗ, mỗi màu một bản sau đó ấn khuôn lên giấy. Tranh được phơi khô sau mỗi lần in ba hay năm màu.
Sau khi in thành tranh, kể cả cả lúc tranh khô, người xem vẫn cảm nhận được màu sắc của tranh thật tươi tắn như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng màu đặt cạnh nhau có sự ăn ý hài hoà một cách tự nhiên. Những năm gần đây có một số người khi in tranh đã từng dùng một số màu và hoá chất hiện đại, như thế sản phẩm có tăng nhưng chất liệu màu của tranh không tươi và sắc nét như tranh làm truyền thống. Ðã thế, chỉ trong một thời gian ngắn màu sắc sẽ bị phai nhạt.
Các màu sắc cũng đại biểu cho một ý nghĩa nào đó, ví dụ: màu vàng hoa hòe tượng trưng cho sự no đủ của cánh đồng lúa chín, màu xanh như luỹ tre, màu đỏ gấc như yếm thắm, màu tím như thắt lưng, màu đen như váy lĩnh giữa mùa quan họ. Tất cả đều là vật liệu có sẵn trong thiên nhiên, đã ăn sâu vào trong tâm thức người Việt từ xưa. Có người yêu tranh nhận xét khi xem tranh như sau: “Tiếng nói sâu kín của bản năng và tiềm thức không biết bao lần làm ta giật mình, bồi hồi trong kỷ niệm”.
Mặc dù tranh khắc gỗ màu của Việt Nam và của Trung Hoa có sự gần gũi nhất định, nhưng tranh Đông Hồ đã phát triển thành một hướng riêng tồn tại nhiều thế kỷ và được thừa nhận như dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở nước ta. Tranh Đông Hồ gắn bó và thể hiện cuộc sống lao động của người nông dân bình dị, chất phác, hay các phong tục, tập quán, sinh hoạt của người dân Việt.
Xem thêm: Nghề cổ Đất Việt – Kỳ 1: Gốm Bát Tràng – Hồn của đất
Nghệ thuật trong tranh Đông Hồ
Mỗi bức tranh Đông Hồ thể hiện một truyền thuyết hoặc một câu chuyện ngụ ngôn mang tính triết lý, một bức thông điệp về đạo đức, luân lý và tín ngưỡng sâu sắc. Ngoài ra, chúng ta có thể bắt gặp trong tranh sự dí dỏm, khéo léo, tế nhị, hay lời chúc hạnh phúc, may mắn trong ngày Tết. Các con vật gần gũi với làng quê như gà trống, trâu, lợn, mèo, cá, v.v. cũng xuất hiện nhiều trong tranh Đông Hồ.
Tranh làng Ðông Hồ không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người ta dùng ván để in. Ðể có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu và bản khắc ván đòi hỏi phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao. Công đoạn in tranh thì đơn giản hơn bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in.
Tranh dân gian Ðông Hồ không áp dụng chặt chẽ các nguyên tắc về ánh sáng hay luật xa gần theo lối tranh hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc. Tất cả đều sử dụng lối vẽ đơn giản để thể hiện, do đó khi xem tranh dân gian, người ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý hợp tình.
Thẩm mỹ của tranh Đông Hồ giản dị, chân thực, có đôi lúc chân thực đến vụng về. Nhưng nó bao hàm một vẻ đẹp không thể cưỡng lại của một tâm hồn còn phảng phất đâu đây của dân tộc, như sự nối tiếp âm thầm của một nền văn hóa lâu đời.
Tranh Đông Hồ là sản phẩm kết tinh của các thế hệ người làm tranh làng Hồ. Chỉ với những bức họa đơn giản, hình ảnh về làng quê được tái hiện lên rất đơn sơ, mộc mạc và thân quen. Màu sơn trong tranh được làm bằng chất liệu tự nhiên gắn liền với đời sống, là điều tạo nên những bức tranh sinh động và chân thật mà không phải sản phẩm nào cũng làm được điều đó.
Những bức họa làng quê trong tranh Đông Hồ như một lời nhắc nhở chúng ta hãy biết trân quý những giá trị truyền thống xưa mà cha ông đã để lại.
Thanh Phong
Xem thêm:
Từ khóa Nghề cổ đất Việt tranh dân gian