Thời Lê Trung Hưng, người nắm quyền thực sự là chúa Trịnh, vì thế mà khi xảy ra vụ án liên quan đến mâu thuẫn vua Lê và chúa Trịnh, không một vị quan nào dám đứng ra xét xử. Để tránh trách nhiệm các quan cùng tiến cử một người, đó là ai?

Xuất thân

Sau khi nhà Lê tiến quân ra Thăng Long đánh bại nhà Mạc, con cháu nhà Mạc bị truy lùng. Có gia đình họ Mạc ở Hải Dương chạy trốn đến làng Đặng Điền, huyện Chân Lộc (nay là xóm Tiên Lạc, xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), đổi sang họ Phạm.

Sau này đến thế kỷ 18, họ Phạm sinh được người con trai nổi tiếng là Phạm Nguyễn Du. Trong văn bia dòng họ, đích thân Phạm Nguyễn Du ghi chép lại rằng:

“Năm Nhâm Tý (1732), cha ta đi thi Hương không đậu, thế là ông trở về sống thanh bần, hiền lành, trung hậu, hòa thuận với mọi người ở quê nhà. Sáng dạy học trò, chiều vác cuốc thăm đồng. Mẹ ta người họ Nguyễn rất cần cù, tiết kiệm, mến khách. Người Diễn Châu thường đi lánh nạn qua thôn ta. Đối với những người có học thức, mẹ ta thường mời về ở. Đối với những người nông dân già yếu, mẹ ta lo lắng việc ăn uống chu đáo, chưa bao giờ kể công. Mẹ ta là người con dâu hiếu thảo cúng tế tổ tiên, thờ phụng cha mẹ thành tâm. Mẹ thường nói với ta rằng: Công đức của ông bà tổ tiên rất to. Sau này con lớn lên phải lo cúng tế chu đáo và phải truyền cho con cháu đời sau biết điều đó.”

Dân gian còn kể rằng trước đó bên cạnh nhà cha mẹ Phạm Nguyễn Du có động đá, người trong vùng đồn rằng đêm đêm trong động có tiếng đọc sách. Hai vợ chồng ông bà ở với nhau lâu rồi mà chưa có con, thường đến động này cầu tự, sau đó người vợ mang thai, cũng từ đó trong động người ta không còn nghe tiếng đọc sách nữa. Người dân đồn rằng thần đồng đã thác sinh làm con hai vợ chồng.

Năm 1739, người vợ sinh được người con trai, đặt tên là Vĩ Khiêm. Bấy giờ gia cảnh nghèo khó, xã hội nhiễu nhương, dân chúng Đàng Ngoài nổi dậy khắp nơi. Vì thế mà năm 17, 18 tuổi, Vĩ Khiêm mới được đi học.

Dù học muộn nhưng Vĩ Khiêm thông minh lạ thường, học hành tấn tới, văn chương nổi tiếng nhất thời bấy giờ, được khảo tập tại Quốc Tử Giám. Ông lấy tên mới là Phạm Nguyễn Du, hiệu là Thạch Động vì cha mẹ ông cầu tự ở Thạch Động mà sinh ra ông.

Phạm Nguyễn Du thông minh, nhưng lời nói thẳng không kiêng nể ai, vì thế mà mỗi khi dự thi, các quan ghét nên tìm cách đánh rớt.

Đến khoa thi năm 1773, Phạm Nguyễn Du dự thi Hương và đỗ đầu tức Giải nguyên. Lúc này Hoàng Ngũ Phúc đưa quân nào nam, chiếm được vùng Thuận Hóa, ông được cử vào nam giúp an định vùng đất này.

Đến khoa thi năm 1779, ông thi Hội và lại đỗ đầu tức Hội nguyên, vào thi Đình thì đỗ Hoàng giáp

Vụ án mâu thuẫn vua Lê chúa Trịnh

Phủ chúa Trịnh thế kỷ 17. (Tranh: Samuel Baron, Royal Society Collection, Wikipedia, Public Domain)

Khi Phạm Nguyễn Du đỗ Giải nguyên năm 1773 (chưa đỗ Hoàng giáp) thì Triều đình có vụ án khiến các quan bối rối không biết xử lý thế nào. Nguyên là lúc đó chúa Trịnh Sâm rất yêu chiều mỹ nữ Đặng Thị Huệ, phong cho làm Tuyên Phi. Em của Huệ là Đặng Mậu Lân ỷ thế của chị mà mặc sức hoành hoành ngang ngược, chẳng xem ai ra gì, vì thế mà thời đó gọi là “cậu trời”.

Theo “Đăng khoa lục sưu giảng”, một lần kiệu của Đặng Mậu Lân ở ngoài đường tình cờ gặp Hoàng tử, Mậu Lân tranh đường đi trước, lại còn lăng mạ cả Hoàng tử.

Hoàng tử ức lắm đem chuyện này lên Triều đình yêu cầu xét xử Mậu Lân. Việc này khiến các quan vô cùng lúng túng, bởi nhà Chúa xem vua Lê chẳng ra gì, không chỉ quyết định ai lên ngôi mà còn quyết cả chuyện sống chết của Vua, Đặng Mậu Lân lại được xem như “cậu trời” không ai dám động đến. Nhưng đây là Hoàng tử yêu cầu xử, Vua cũng yêu cầu xử để rửa nhục cho Hoàng gia, vậy phải làm sao? Chính vì thế mà đây là vụ án nổi tiếng khắp Kinh thành.

Vua cũng muốn nhân việc này để xem các quan trong Triều liệu có ai đứng về phía Vua hay không, hay tất cả đều nghe theo nhà Chúa, vì thế mà Vua hối thúc liên tục, nhưng suốt hơn 2 tháng vụ án không có động tĩnh gì.

Chỉ duy nhất một người dám xét xử

Lúc này Phạm Nguyễn Du nổi tiếng là người cương trực, lời nói chẳng kiêng nể ai, vì thế các quan nói rằng “vụ này phải để Đặng Điền Công mới làm được thôi” (Đặng Điền Công ý chỉ Phạm Nguyễn Du vì ông là người làng Đặng Điền).

Phạm Nguyễn Du vốn bị nhiều người ghét, thi cử bị tìm cách đánh rớt, nên lúc đó mới đỗ Giải nguyên, chức nhỏ không có tư cách xử vụ này. Thế nhưng áp lực vụ án khiến Triều đình phải đặc cách cho ông xử.

Ngày xét xử, Phạm Nguyễn Du ngồi ở vị trí Tể thần, mặc mũ áo mới Triều đình ban cho. Ông xét xử Hoàng tử rằng:

Ông là cành vàng lá ngọc, sao không biết tự trọng, lại đi cãi nhau với một kẻ thất phu, để bị nó lăng nhục đến Hoàng gia, còn gì là thể diện, tội đáng phạt 30 búa đồng”.

Rồi đến xét xử Đặng Mậu Lân, ông nói rằng:

“Anh là một tên thất phu ở thôn quê, cậy thế cung phi, lăng nhục người thường cũng là có tội, phương chi lại dám tranh đường đi với Hoàng tử, lăng nhục đến Hoàng gia, tội thật đáng chết, nhưng Đình nghị vì nể kính chúa nên xử phạt anh 50 búa đồng”.

Cả vua Lê và chúa Trịnh đều chứng kiến. Vua khen ông là người chính trực, chúa Trịnh Sâm cũng không trách gì được.

*

Phạm Nguyễn Du có tài văn chương lỗi lạc, đỗ đầu cả thi Hương và thi Hội, tính tình khẳng khái hào sảng, vì thế người thời đó có câu rằng:

Đại can đại đảm lăng đẳng cốt.
Song tiến song nguyên lỗi lỗi thân.

Nghĩa rằng ông là người gan to, mật lớn, sừng sững hiên ngang. Thi Hương và Hội, hai lần đỗ đầu, thực là một người lỗi lạc.

Sau khi Phạm Nguyễn Du mất, Triều đình sắc phong cho ông như sau: “Phạm Nguyễn Du là người liêm khiết trong trắng, trung thực, hiền lành được dân làng thờ cúng ngưỡng mộ, tiếng thơm lưu truyền muôn thưở. Nay phong Thần lượng Đại vương”.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: