Việt Nam trong mạng lưới hải thương châu Á và ‘Con đường tơ lụa trên biển’
- Trần Đức Anh Sơn
- •
Con đường tơ lụa trên biển ấy xứng đáng được vinh danh và bảo tồn như là di sản chung của nhiều thế hệ, nhiều quốc gia đã góp phần làm nên con đường huyền thoại ấy. Đó không thể là di sản riêng của một chính thể, một quốc gia nào, và càng không thể phục vụ cho một mục đích chính trị nào.
Trong hai ngày 30 và 31/5/2017, hơn 30 chuyên gia, học giả quốc tế trong lĩnh vực lịch sử, khảo cổ và di sản hàng hải đã nhóm họp tại Viện Khảo cổ học thuộc Đại học London (UCL, Anh quốc), dưới sự chủ trì của Trung tâm di sản thế giới (WHC) thuộc UNESCO.
Tham gia điều hành hội nghị quan trọng này còn có Hội đồng di tích và di chỉ quốc tế (ICOMOS) và Trung tâm quốc tế về nghiên cứu bảo tồn và bảo quản các tài sản văn hóa (ICCROM), là những tổ chức phi chính phủ quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên của nhân loại.
Đây là hội nghị xem xét quy trình công nhận Con đường tơ lụa trên biển (Maritime Silk Road) là Di sản Thế giới, do Chính phủ Trung Quốc tài trợ kinh phí, thông qua Quỹ Di sản thế giới (WHF). Trung Quốc cũng chính là quốc gia đề xướng việc lập hồ sơ đệ trình UNNESCO công nhận Con đường tơ lụa trên biển là Di sản Thế giới.
Đúng 6 tháng sau, ngày 1/12/2017, tại Seoul diễn ra hội thảo quốc tế Con đường tơ lụa trên biển ở Đông Nam Á: Giao lộ của văn hóa do Đại học Sogang và Bảo tàng Quốc gia Hàn Quốc đồng tổ chức, với sự tham gia của các học giả đến từ Ấn Độ, Thái Lan, Pháp, Ý, Việt Nam và Hàn Quốc.
Các học giả tham dự hội thảo này đã dẫn nhiều bằng chứng khảo cổ học và tư liệu lịch sử để chứng minh Con đường tơ lụa trên biển kết nối Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, thế giới Ả Rập và châu Âu xuyên qua Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Địa Trung Hải…, hình thành từ hơn 2.000 năm trước là di sản chung của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Đó không chỉ là mạng lưới hải thương liên lục địa, mà là còn giao lộ của văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tác động đến sự phát triển của nhiều quốc gia qua nhiều thời kỳ lịch sử.
Con đường tơ lụa
Nhà địa lý học người Đức Ferdinand von Richthofen là người khai sinh thuật ngữ Seidenstraße (Con đường tơ lụa) vào năm 1877 trong các nghiên cứu của ông về con đường thương mại cổ đại xuất phát từ Trung Hoa đi về phía tây châu Á, xuyên qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, các nước xung quanh Địa Trung Hải và đến tận châu Âu, dài hơn 6.400 km.
Đó là con đường buôn bán giữa Trung Quốc với thế giới bên ngoài, khởi nguyên từ thời nhà Hán (206 TCN – 220), hưng thịnh vào thời nhà Đường (618 – 907) và nhà Nguyên (1271 – 1368), suy thoái và tàn lụi vào thời Minh (1368 – 1644).
Ngoài Con đường tơ lụa trên bộ từ Trung Quốc xuyên qua Trung Á và Trung Đông, còn có tuyến thương mại đường biển kết nối các thương cảng của Trung Quốc với các thương cảng của các quốc gia trong khu vực Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, đến tận Địa Trung Hải và châu Âu. Đó là Con đường tơ lụa trên biển, hình thành từ thời nhà Hán, phát triển mạnh mẽ vào thời nhà Đường và bùng nổ trong các thế kỷ XVI – XVII. Những nghiên cứu của giới khảo cổ học và sử học quốc tế ngay nay cho biết Con đường tơ lụa trên biển này đã kết nối 43 địa điểm, chủ yếu là các thương cảng, thuộc các quốc gia: Pakistan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Nga, Oman, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Venice. Trong đó, có 8 địa điểm nằm trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay là: Vân Đồn, Luy Lâu, Long Biên, Phố Hiến, Hội An, Cù Lao Chàm, Thị Nại và Óc Eo.
Việt Nam trong mạng lưới hải thương châu Á thời cổ đại
Việt Nam là một quốc gia bán đảo, có bờ biển trải dài hơn 3.260 km và một không gian biển rộng hơn 1 triệu km2. Việt Nam lại nằm trên tuyến hải thương quan trọng nhất thế giới, từng là một trong những trung tâm kinh tế lớn ở Đông Nam Á thời cổ trung đại, giữ một vai trò quan trọng trong mạng lưới hải thương châu Á.
Trong các thế kỷ trước và sau Công nguyên, chủ nhân các nền văn hóa: Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo – Phù Nam trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã từ vùng trung du, đồng bằng cận duyên tiến dần ra phía biển, khai thác tài nguyên biển để tồn tại và du nhập các yếu tố biển vào văn hóa của cộng đồng mình.
Đặc biệt, cư dân của văn hóa Đông Sơn đã có mối quan hệ mật thiết với cư dân ở nam Trung Hoa, ở tây nam Nhật Bản, ở các quốc đảo trong khu vực Đông Nam Á thông qua giao thương trống đồng. Những trống đồng Đông Sơn phát hiện trong các di chỉ ở Nam Trung Hoa, Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, nhất là ở các vùng cận duyên từng là những cảng thị cổ ở Philippines, Malaysia và Indonesia… là những minh chứng sống động. Nhiều nhà nghiên cứu đã xác quyết hình thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn chính là hình mẫu của kiểu nhà mái cong và là totem của nhiều tộc người sống trong vòng cung Thái Bình Dương, điển hình là cư dân ở vùng Batak và vùng Tongkonan ở Indonesia. Mục từ “Dongson Culture” trong “The New Encyclopaedia Britanica” ghi nhận: “Đông Sơn không những chỉ riêng là văn minh đồ đồng mà cũng có đồ sắt nữa… Người Đông Sơn là dân đi biển, có thể đã hải hành và thương mại khắp vùng Đông Nam Á châu”.
Những công bố của các học giả phương Tây về khảo cổ học Đông Nam Á trong các 30 năm gần đây, cùng với thông tin từ các nguồn thư tịch cổ ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á cho biết cách đây khoảng 4.000 năm, cư dân Đông Nam Á đã tham gia vào mạng lưới hải thương quốc tế, kết nối Trung Hoa với các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, thế giới Ả Rập và châu Âu. Ngoài giao thương về kinh tế, còn có sự tiếp xúc, trao đổi trong các lĩnh vực văn hóa, tôn giáo, chính trị… Những tiếp xúc này đã tác động lớn đến việc thay đổi các cấu trúc xã hội, tôn giáo và văn hóa của cư dân Đông Nam Á, trong đó có cư dân Việt Nam cổ đại.
Từ trước thời Bắc thuộc, lưu vực sông Hồng, sông Mã đã là những trung tâm hàng hải cùng thương mại phồn thịnh, hàng hóa đi khắp nơi và có liên lạc thường xuyên với Tây phương. Hán sử chép rằng Hán Vũ Đế (156 – 87 TCN) tạo lập một tuyến hải thương từ Trung Hoa đến Ấn Độ đi qua biển Đông và Ấn Độ Dương. Chuyến hàng đầu tiên gồm có tơ lụa và vàng rời Trung Hoa vào năm 140 TCN, đến một thành phố ở gần Madras (Ấn Độ). Phương tiện chuyên chở chuyến hàng này do người Nam Man phụ trách. Nam Man là tên người Hán gọi cư dân các tộc người Việt cổ ở phía nam Trung Hoa.
Nghiên cứu của các học giả quốc tế sau này cũng ghi nhận tương tự. Học giả Trung Quốc Lin Yu viết trong nguyệt san T’ien Hsia Monthly rằng: “Thời cổ đại, người Man đã đóng thuyền đi ra biển. Cho đến cuối triều đại Lưu Tống (420 – 479, thời kỳ Nam Bắc triều), có thể người Trung Hoa mới bắt đầu đóng tàu thuyền cho việc hải thương”.6 Còn Friedrich Hirth và W.W. Rockhill, tác giả của nhiều sách và bài khảo cứu về hàng hải châu Á, thì quả quyết rằng: “Vào đầu Công nguyên, không có một tàu thuyền nào của Trung Hoa hoạt động trong Ấn Độ Dương, mà người Trung Hoa thường quá giang theo tàu thuyền của dân Nam Man”.
Những hải trình thương mại giữa Địa Trung Hải và các nước Đông Á đều đi qua một thương trạm mang tên Kattigara (hay Cattigara), mà hầu hết bản đồ thế giới cổ đại xuất bản ở phương Tây đều đánh dấu là một vị trí thuộc miền Bắc Việt Nam ngày nay. Nhiều học giả cho rằng Kattigara chính là vùng đất Kẻ Chợ – Hà Nội sau này. Nhưng cũng có ý kiến nói rằng Kattigara là vùng cảng Hòn Gai trong vịnh Hạ Long ngày nay (ý kiến của Bình Nguyên Lộc).
Trong thời kỳ Bắc thuộc (179 TCN – 938), hải cảng sầm uất nhất khu vực Đông Nam Á là Long Biên, nằm ven sông Hồng. Mọi hàng hóa chuyên chở bằng đường biển vào ra Trung Quốc thời kỳ này đều từ đi qua Long Biên và người Việt ở Giao Chỉ (Bắc Bộ Việt Nam ngày nay) luôn luôn nắm giữ hệ thống thương thuyền giao dịch trong mạng lưới hải thương này.
Sau thời Bắc thuộc, Đại Việt (Việt Nam lúc đó) tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong mạng lưới hải thương ở Biển Đông. Ở vùng biển cực bắc của Đại Việt, vào năm 1149, vua Lý Anh Tông cho thành lập thương cảng Vân Đồn và biến nơi này thành một thương cảng quốc tế kết nối giao thương giữa Đại Việt với các nước ở khu vực Đông Bắc Á trong các thế kỷ XII – XIV.
Phía nam Đại Việt bấy giờ là vương quốc Champa. Các chứng cứ khảo cổ học phát hiện ở miền Trung Việt Nam (vốn là lãnh thổ của vương quốc Champa xưa) cùng với thông tin từ các nguồn sử liệu của Trung Quốc, Đại Việt và bi ký Champa, cho biết: cư dân Champa từ các thế kỷ VI – VII đã có các hoạt động giao thương với các quốc gia ở Đông Nam Á và thương buôn Trung Hoa, Ả Rập. Trong đó Cù Lao Chàm là một trong những trạm dừng quan trọng trong mạng lưới hải thương ở Biển Đông. Những phát hiện khảo cổ, cùng với những ghi chép trong thư tịch cổ và những điều kiện sinh thái thuận lợi cho thấy cụm đảo Cù Lao Chàm đã tham dự vào tuyến đường giao thương hàng hải thời cổ trung đại. Kết quả khai quật di chỉ Bãi Làng cho thấy có hiện vật có nguồn gốc nội địa như gốm cùng kiểu dáng, niên đại và hoa văn với gốm phát hiện ở Đồng Nà, Nam Thổ Sơn, Trà Kiệu…; có đồ gốm Trung Hoa thế kỷ VII – VIII; có đồ gốm và thủy tinh có nguồn gốc từ Trung Đông, tương tự đồ gốm phát hiện ở Phú Quốc, Trà Kiệu, Ngũ Hành Sơn, Hội An…, niên đại vào khoảng thế kỷ IX – X.
Ở miền nam Việt Nam, trong các thế kỷ VII – XII, cư dân Óc Eo – Phù Nam ở châu thổ sông Mékong đã giao thương với các quốc gia trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Việt Nam và Con đường tơ lụa trên biển trong kỷ nguyên Đại thương mại của thế giới
Thế kỷ XVI, tình hình thế giới có nhiều biến đổi, nhất là về kinh tế. Ở châu Âu, chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh và đang mở rộng quá trình tìm kiếm thị trường ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Sự phát triển này có ảnh hưởng nhất định đến bối cảnh kinh tế và chính trị của Việt Nam tại thời điểm đó. Lúc này Việt Nam đã bị chia cắt thành hai vùng: Đàng Ngoài và Đàng Trong. Chính quyền ở cả hai vùng này đều thực thi chính sách mở cửa đối với ngoại thương, bằng việc thiết lập một hệ thống thương cảng quan trọng, cho phép tàu buôn nước ngoài đến buôn bán và trung chuyển hàng hóa giữa Việt Nam với các nước trong và ngoài khu vực.
Ở Đàng Ngoài có hai thương cảng quốc tế nổi tiếng là Phố Hiến (Hưng Yên) và Thăng Long – Kẻ Chợ (Hà Nội). Ở Đàng Trong, chính quyền mở nhiều thương cảng ven biển trên cơ sở hồi sinh các thương cảng cổ của vương quốc Champa xưa, vốn là những trong địa trong mạng lưới hải thương mại của Champa từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII. Trong đó, các cảng Thanh Hà (Huế), Hội An (Quảng Nam) và Nước Mặn (Quy Nhơn) là ba thương cảng quốc tế quan trọng nhất.
Ngoài các thương cảng ven biển, thì các đảo ven bờ ở Đàng Trong như Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, Cù Lao Thu… cũng là những điểm cập bến chân thường xuyên của thương thuyền nước ngoài, để tránh trú bão, tiếp nước ngọt và lương thực, trao đổi hàng hóa…
Trước khi có sự bùng nổ hải thương trong kỷ nguyên Đại thương mại (thế kỷ XVI – XVII) trên thế giới, thì vào năm 1371, chính quyền nhà Minh ở Trung Quốc ban hành chính sách hải cấm (cấm biển), kéo dài cho đến năm 1567 mới chấm dứt. Chính sách hải cấm đã khiến cho nhiều loại hàng hóa truyền thống từ Trung Hoa xuất khẩu sang Nhật Bản và một số nước phương Tây như tơ lụa, gốm sứ… bị cấm vận. Do đó, thương thuyền của Nhật Bản và các nước phương Tây phải tìm mua những mặt hàng thay thế ở các nước khác như Việt Nam, Ấn Ðộ, Thái Lan…, hoặc dùng hải cảng của các nước này để trung chuyển hàng hóa giữa Trung Hoa, Nhật Bản và các nước bên ngoài châu Á. Ðiều này đã khiến cho các thương cảng ở Việt Nam trở thành những mắt xích quan trọng trong mạng lưới hải thương từ Á sang Âu và ngược lại. Ngoài ra, chính sách hải cấm của Trung Quốc thời kỳ này đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam, như: đồ gốm, tơ sống, hương liệu, gia vị, lâm thổ sản… vượt biển đi đến các nước trong khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản và thế giới Ả Rập.
Đây là thời kỳ mà con đường tơ lụa trên biển được phục hưng mạnh mẽ. Cùng với nó là con đường gia vị, con đường gốm sứ… được hình thành, hoạt động nhộn nhịp thông qua mạng lưới hải thương xuyên đại dương. Những con đường này đã kết nối các nền kinh tế ở phương Đông với phương Tây; du nhập khoa học kỹ thuật của châu Âu vào châu Á; truyền bá văn hóa, tư tưởng và tôn giáo từ phương Tây sang phương Đông và ngược lại.
Các dấu tích khảo cổ học dày đặc trên lãnh thổ Việt Nam; các con tàu đắm trên vùng biển Việt Nam được phát hiện ở Hòn Cau, Cù Lao Chàm, Bình Thuận, Cà Mau, Bình Sơn…; các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể hiện hữu trong các di tích lịch sử văn hóa ở khắp Việt Nam…, đã chứng minh Việt Nam đã tích cực tham gia vào mạng lưới hải thương xuyên Biển Đông và đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và duy trì con đường tơ lụa trên biển từ trước Công nguyên cho đến kỷ nguyên Đại thương mại hàng hải của nhân loại.
Và, con đường tơ lụa trên biển ấy xứng đáng được vinh danh và bảo tồn như là di sản chung của nhiều thế hệ, nhiều quốc gia đã góp phần làm nên con đường huyền thoại ấy. Đó không thể là di sản riêng của một chính thể, một quốc gia nào, và càng không thể phục vụ cho một mục đích chính trị nào.
Theo Facebook TS Trần Đức Anh Sơn
(*) Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội TP Đà Nẵng.
Xem thêm:
Từ khóa biển Đông Con đường tơ lụa trên biển hải thương