Tổ chức bí ẩn và những điệp vụ tối mật của Đức quốc xã – phần 2
- Thiện Tâm
- •
Người phụ nữ xinh đẹp và bí ẩn, nguồn gốc của những chiếc đĩa bay đầu tiên của Đức quốc xã và con người trên Trái Đất.
Tiếp theo Phần 1
Cho đến nay, không ai biết tổ chức Ahnenerbe đã thu được kết quả gì từ các cuộc thám hiểm vùng núi Cáp-ca, Tây Tạng và Nam Cực. Tuy nhiên có một số tài liệu cho biết Đức Đạt Lai Lạt ma thứ 13 và Nhiếp chính vương Kvotukhtu của Tây Tạng rất coi trọng Hitler và có kênh liên lạc vô tuyến trực tiếp với Đức quốc xã, ít nhất ở giai đoạn trước khi xảy ra Thế chiến II.
Ngày 25/4/1945, những người lính Nga đã tìm thấy sáu người Tây Tạng đã chết tại một trong những căn hầm ở Berlin, nằm trong một vòng tròn, và ở trung tâm của vòng tròn này có một người đeo găng tay màu xanh lá cây.
Tổng cộng, khi người Nga tiến vào Berlin, người ta đã tìm thấy hơn 1.000 xác chết của những người có đặc điểm của những người nhập cư từ dãy Himalaya, những người đã chiến đấu bên quân Đức. Họ là ai và tại sao họ lại rời xa quê hương đến nay vẫn là một bí ẩn …
Những vũ khí tối tân của Đức quốc xã
Kết thúc Thế chiến II, các nước Đồng minh đã kinh ngạc trước hàng loạt vũ khí tối tân của Đức quốc xã, vượt xa trình độ khoa học và công nghệ lúc bấy giờ, như:
Máy bay ném bom tàng hình Horten Ho 229. Nó được thiết kế để mang gần 1 tấn vũ khí, bay ở độ cao 15km với tốc độ 965km/h. Horten Ho 229 là nguyên mẫu của máy bay ném bom B-2 của Mỹ hiện nay.
Tên lửa đất đối không chống máy bay đầu tiên được trang bị hệ thống dẫn đường hồng ngoại Enzian.
Fritz X, bom dẫn đường bằng vô tuyến đầu tiên trên thế giới chứa 1,5 tấn thuốc nổ, có thể đâm xuyên qua giáp sắt 1 mét và có thể thả được từ độ cao 6km, ở độ cao này các súng phòng không thời đó không thể bắn tới.
Flettner Fl 282 Kolibri là loại máy bay một chỗ ngồi kết hợp trực thăng. Flettner Fl 282 cũng là loại máy bay trực thăng đầu tiên của thế giới được sản xuất hàng loạt.
Và tất nhiên không thể không kể đến V-2, tên lửa đạn đạo tầm xa đầu tiên, sử dụng nhiên liệu lỏng. V2 cũng là vật thể đầu tiên do con người chế tạo có khả năng bay ra Vũ Trụ.
Tuy nhiên, kỳ lạ và hấp dẫn nhất vẫn là tin tức về những chiếc đĩa bay đầu tiên trên thế giới sử dụng động cơ phản trọng lực có thể bay với tốc độ hàng chục ngàn km/h do Đức quốc xã sản xuất.
Những nhân chứng về đĩa bay của Đức quốc xã
Nhiều nhân chứng kể đã từng được nhìn thấy chiếc đĩa bay có dấu chữ thập của quân Đức bay ở tầm thấp trên sông Thames vào năm 1944.
Ông Luigi Romersa, 84 tuổi, một nhà báo, từng là cố vấn quân sự của Mussolini, kể lại với kênh truyền hình Discovery: “Đó là một thiết bị rất khác thường. Nó có hình đĩa tròn, phía trên có một cabin với nắp vòm bằng nhựa thủy tinh.Từ mọi hướng có thể nhìn rõ những ống phun dùng cho động cơ phản lực”.
Theo nhà sử học về hàng không người Anh Henry Stevens, 15 thiết bị bay kiểu như vậy đã được sản xuất vào năm 1943. Chúng được nghiên cứu chế tạo với mục đích sử dụng cho lực lượng SS và được mang mật danh V-7.
Những thiết bị bay có hình dạng tròn được trang bị các động cơ phản lực, phần đáy được lắp các cánh quạt. Giữa “chiếc đĩa” được thiết kế một mái vòm là buồng lái của phi công.
Năm 1944, một cuộc tập kích ném bom lớn đã được tiến hành nhằm vào nhà máy sản xuất vũ khí quan trọng tại Schweinfurt. Trong vòng vài giờ, một phi đội gồm mười đến mười lăm đĩa bay của Đức Quốc xã đã bắn hạ được tới một trăm năm mươi máy bay ném bom của Anh và Mỹ – một phần tư của toàn bộ đội máy bay ném bom.
Sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, một cuốn nhật ký của một kỹ thuật viên từng làm việc tại sân bay Prag-Gbell (Praha) vào năm 1943 cũng được tạp chí Flugzeug của Đức công bố với nhiều chi tiết quan trọng.
Theo đó, ông ta đã tận mắt trông thấy trong nhà chứa máy bay một vật thể dạng đĩa có đường kính từ 5 đến 6 mét và chiều cao tương đương một người trưởng thành, được đứng trên 4 chiếc trụ cao.
Phát xít Đức nhận được thông tin sản xuất đĩa bay từ sinh vật ngoài hành tinh?
Tiến sĩ Wernher von Braun, cha đẻ của tên lửa V-2, người sau là giám đốc Trung tâm vũ trụ Marshall và kiến trúc sư trưởng của tên lửa vũ trụ Saturn V – tên lửa đưa các nhà du hành Vũ trụ lên Mặt trăng, cũng tiết lộ về sự hỗ trợ kiến thức của các thực thể ngoài trái đất, khi ông phát biểu vào năm 1956:
“Chúng tôi thấy mình phải đối mặt với những sức mạnh lớn hơn nhiều so với sự tưởng tượng cho đến nay, đằng sau đó là ai thì hiện tại chúng tôi chưa biết. Có nhiều điều hơn nữa mà tôi không thể nói hiện tại. Chúng tôi hiện đang tham gia vào việc liên hệ chặt chẽ hơn với các cường quốc đó, và trong vòng sáu hoặc chín tháng nữa, chúng tôi có thể nói chính xác hơn về vấn đề này.”
Như vậy, việc Đức quốc xã nhận được thông tin từ các nguồn gốc huyền bí để sản xuất các đĩa bay có thể không phải là điều hoang đường. Điều thú vị hơn nữa, là các thông tin liên quan đến người phụ nữ có tên Maria Orsic, người sáng lập ra Hội kín Vril.
Maria Orsic và hội kín Vril
Maximillien de Lafayette là một trong những tác giả và học giả tài năng nhất thế giới. Ông đã viết hơn 2.500 cuốn sách, 22 từ điển ngôn ngữ hiện đại và cổ đại, và 9 bách khoa toàn thư bằng 25 ngôn ngữ. Ông có 220 cuốn sách bán chạy nhất được xác nhận bởi amazon.com
Trong 2 tập sách “Maria Orsic, người phụ nữ đã tạo ra những đĩa bay đầu tiên của trái đất – UFOs, Maria Orsic, the woman who originated and created earths first flying saucers“, Maximillien de Lafayette đã chỉ ra ít nhất có 82 nguồn thông tin xác nhận sự tồn tại của Maria Orsic và các hoạt động của người phụ nữ này liên quan đến việc chế tạo các đĩa bay đầu tiên của người Đức. Trong đó có rất nhiều tin tức tình báo của Liên Xô cũ, Mỹ, Anh, Nam Tư cũ, các nhà khoa học, các nhà báo, các chính khách thậm chí cả bác sĩ riêng của Adolf Hitler.
Các kênh tình báo của Nga khẳng định Maria Orsic đã hỗ trợ sản xuất nhiều mẫu đĩa bay và trong đó có 1 mẫu đã được sản xuất 15 chiếc. Vậy Maria Orsic là ai?
Maria Orsic sinh năm 1898, là người dạy múa ba lê. Cha của bà là Tomislav Orsicngười Nam Tư cũ, Croatia ngày nay. Còn mẹ bà là Sabine là người Áo. Maria Orsic được sinh ra ở Nam Tư cũ, trước khi gia đình bà nhập cư vào Đức năm 1899.
Theo Maximillien, bắt đầu từ ngày 10/2/1917, Maria liên tục có các tiếp xúc giao cảm (medium) với các sinh vật tự xưng là từ ngôi sao Aldebaran, thuộc chòm sao Hyades, cách trái đất 65 năm ánh sáng. Các thông tin được Maria Orsic ghi lại bằng các ngôn ngữ Templar, Ana’kh, Sumerian, Ugaritic mà bản thân bà không hiểu, bao gồm 2 nhóm thông tin chủ yếu:
1/ Những tiết lộ huyền bí: nhận thức về vũ trụ, sự giác ngộ, nguồn gốc của loài người, lịch sử của các nền văn minh sơ khai trên Trái đất, Atlantis, Lemuria, các thế giới khác và cách vũ trụ được tạo ra, v.v. .
2/ Dữ liệu kỹ thuật: hướng dẫn cách chế tạo một cỗ máy bay siêu đẳng, “Vril”, gồm dữ liệu khoa học và kỹ thuật phức tạp, bản đồ và lịch làm việc, và “hình ảnh toán học” mà cô chỉ có thể nhìn thấy trong tâm trí và nhận được bằng thần giao cách cảm. Liệu từ Vril này có liên quan đến loại lực/sức mạnh của Vũ Trụ mà Blavastky đề cập đến trong phần 1?
Sau quá trình giao cảm với những sinh vật ngoài hành tinh, Maria Orsic thành lập một hội kín – Hội Vril – “Vril Gesellschaft” hay “Vrilerinnen”. Hội Vril chỉ gồm những người phụ nữ có khả năng giao cảm (medium) và ngoại cảm (psychics), những người quan tâm đến việc nghiên cứu và khám phá các mối liên hệ thần giao cách cảm với người ngoài Trái Đất. Hội Vril có 5 người gồm Maria, Traute, Gudrun, Sigurn và Heike, trong đó Maria là người đứng đầu.
Các “quý cô Vril” là những người phụ nữ rất xinh đẹp và có tiêu chuẩn đạo đức cao thượng. Họ ăn chay, không quan hệ tình dục, không dùng bia, rượu, chất kích thích và thương xót đồng loại. Vril có mục tiêu là chế tạo siêu máy bay có thể đưa họ đến Aldebaran, dựa trên dữ liệu kỹ thuật và hướng dẫn mà Maria nhận được từ người ngoài Trái Đất. Họ tìm kiếm các nhà đầu tư, các học giả có thể đóng góp về mặt tài chính và khoa học cho dự án xây dựng tàu Vũ Trụ mà họ cần để đến thăm người ngoài Trái Đất.
Và đặc biệt, hội Vril có yêu cầu ngăn chặn quân đội Đức quốc xã và SS tiếp cận với bí quyết và dữ liệu kỹ thuật mà họ nhận được từ người ngoài trái đất. Vì từ năm 1919, Maria Orsic đã tiên tri rằng Hitler sẽ phát động chiến tranh thế giới trong tương lai.
Các đĩa bay của Vril
Maria cuối cùng cũng thuyết phục được Giáo sư Winfried Otto Schumann, nhà khoa học nổi tiếng, người đã phát hiện ra tần số cộng hưởng Schumann của Trái Đất và các nhà tài trợ từ hội kín Thule và hội kín DHvSS hỗ trợ trong việc chế tạo các vật thể bay.
Maria Orsic gọi các vật thể bay mà mình tạo ra là Jenseitsflugmaschine, có nghĩa là “cỗ máy bay của thế giới khác” hay “cỗ máy bay của thế giới bên kia”.
Vật thể bay của Maria sử dụng động cơ phản trọng lực có nhiên liệu từ nước. Điều này tương tự với các khám phá của các nhà khoa học đương thời như Viktor Schauberger và Karl Schapeller về động cơ đẩy từ nước.
So sánh dữ liệu do Maria Orsic cung cấp với các dữ liệu của Viktor Schauberger và Karl Schapeller, giáo sư W.O Schumann phát hiện rằng dữ liệu của Maria có giá trị hơn về mặt khoa học và tiến bộ hơn nhiều so với dữ liệu của 2 nhà khoa học này.
Với sự tài trợ của các thành viên hội Thule và hội DHvSS, chiếc đĩa bay đầu tiên đã được W.O Schumann sản xuất. Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên diễn ra vào ngày 23/3/1922, nhưng đã hoàn toàn thất bại. Chiếc đĩa bay quay tròn và nổ tung như pháo hoa.
Chiếc đĩa bay thứ hai của Vril được hoàn thành vào 17/12/1923 với một vài bổ sung quan trọng về kỹ thuật, và đặc biệt nó được điều khiển bởi ý thức của Maria Orsic qua tấm băng đô đeo ở trán người phụ nữ này.
Chuyến bay thử thứ 2 diễn ra vào tháng 1/1923 và thành công ngoạn mục. Theo nhật ký của Tiến sĩ W.O Schumann, chiếc phi thuyền bay với tốc độ 300.000k/h. Nhưng chiếc phi thuyền đã hạ cách sau 55 phút, trông như một cỗ máy cổ xưa, giống như một cô gái trẻ đột nhiên già đi 100 tuổi.
Maria Orsic giải thích với Schumann rằng chiếc đĩa bay đã bay qua các vùng không-thời gian khác và chịu tác động về thời gian khiến nó bị biến đổi về tính chất và tuổi thọ.
Để tìm hiểu xem Đức quốc xã đã sản xuất các đĩa bay như thế nào từ các thông tin của hội kín Vril, kính mời Quý độc giả đón đọc Phần 3.
Quay lại Phần 1
Thiện Tâm
Xem thêm:
>> Khám phá quan trọng nhất thời đại: Khống chế năng lượng ‘miễn phí’ từ thinh không