Ông William Parker, học giả thỉnh giảng tại Đại học Bắc Carolina và là Giám đốc điều hành WPLab, người đã nghiên cứu về chứng tự kỷ hơn một thập kỷ qua, chia sẻ rằng mặc dù acetaminophen tiềm ẩn rủi ro khi sử dụng trong thai kỳ, nhưng nhiều bằng chứng cho thấy nguy cơ lớn hơn thực sự xuất hiện khi thuốc được dùng sau sinh.

r shutterstock 2145905771 1
    (Ảnh: Shutterstock)

Bằng chứng về acetaminophen và tự kỷ ngày càng trở nên “nặng ký”

Nhà sản xuất Tylenol trước đây – Johnson & Johnson (J&J) – đã theo dõi chặt chẽ các nghiên cứu về mối liên hệ giữa acetaminophen (paracetamol) và rối loạn phát triển thần kinh ở trẻ, bao gồm tự kỷ (ASD) và rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD).

Theo email nội bộ năm 2018, một giám đốc dịch tễ học của J&J thừa nhận “bằng chứng đang trở nên nặng ký”, khi nhiều nghiên cứu cho thấy việc dùng acetaminophen trong thai kỳ có thể liên quan đến nguy cơ rối loạn phát triển ở con. Tuy nhiên, các lãnh đạo công ty đã quyết định không tài trợ cho nghiên cứu độc lập vì lo ngại kết quả có thể xác nhận mối liên hệ này. Một tài liệu nội bộ thậm chí ghi rõ mục tiêu của dự án “Project Cocoon” là “bảo vệ acetaminophen” và “không cần thay đổi nhãn thuốc”.

Gần đây, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho biết đang xem xét cập nhật nhãn cảnh báo cho các sản phẩm chứa acetaminophen, nêu rõ rằng việc sử dụng trong thai kỳ “có thể liên quan đến tăng nguy cơ rối loạn thần kinh ở trẻ”, dù cơ quan này nhấn mạnh chưa có bằng chứng khẳng định mối quan hệ nhân quả.

Nguy cơ khi trẻ dùng acetaminophen

Acetaminophen là loại thuốc duy nhất có tác dụng giảm đau và hạ sốt được phép dùng cho trẻ nhỏ dưới 6 tháng tuổi. Ở những trẻ sau này bị mắc chứng tự kỷ, ông Parker cho rằng acetaminophen đóng vai trò như một tác nhân kích hoạt khởi phát giữa hàng loạt yếu tố tiềm ẩn khiến trẻ dễ mắc các rối loạn về sức khỏe.

Trong thời kỳ mang thai, acetaminophen được chuyển hóa qua gan của cả mẹ và thai nhi. Tuy nhiên, giai đoạn sau sinh, trẻ đã tách biệt khỏi mẹ, vì vậy đây là thời điểm trẻ dễ bị tổn thương nhất, ông Parker cho biết.

Ông đã trích dẫn một nghiên cứu cho thấy nồng độ acetaminophen cao trong máu cuống rốn có liên quan đến nguy cơ mắc chứng tự kỷ cao gấp 3,6 lần so với nhóm ít dùng thuốc hơn. Nồng độ acetaminophen trong máu cuống rốn phản ánh mức độ phơi nhiễm trực tiếp của trẻ sơ sinh với thuốc.

Một số bằng chứng ủng hộ nhận định trên bắt nguồn từ các nghiên cứu ban đầu của Tiến sĩ Stephen Schultz. Ông là người đầu tiên điều tra về tự kỷ và vắc-xin cùng acetaminophen sau khi con trai ông bị thoái lui phát triển và mắc chứng tự kỷ sau khi tiêm vắc-xin MMR (vắc-xin 3 trong 1) kết hợp với dùng acetaminophen.

Nghiên cứu này, dựa trên khảo sát các phụ huynh, đã phát hiện ra mối quan hệ giữa chứng tự kỷ và việc sử dụng acetaminophen sau khi tiêm chủng nhưng không có mối quan hệ nào khi acetaminophen không được sử dụng.

Thủ thuật cắt bao quy đầu, thường được thực hiện sau khi sinh, cũng có liên quan với chứng tự kỷ. Các nhà nghiên cứu trong báo cáo này lưu ý rằng paracetamol thường được dùng cho trẻ nhỏ để giảm đau.

Tỷ lệ mắc chứng tự kỷ bắt đầu tăng mạnh vào những năm 1980, trùng thời điểm với việc kê đơn acetaminophen gia tăng. Khi đó, các nghiên cứu cho thấy việc cho trẻ em dùng aspirin để hạ sốt và giảm đau có thể gây hội chứng Reye, vì vậy các khuyến nghị y tế cộng đồng chuyển sang sử dụng acetaminophen thay thế.

Tuy nhiên, ông Parker cho rằng tác động toàn diện của acetaminophen đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ chưa bao giờ được kiểm chứng đầy đủ.

Trước đây, người ta cho rằng trẻ trên 1 tuổi chuyển hóa thuốc giống như người lớn. Vì ngộ độc acetaminophen ở người lớn chủ yếu gây tổn thương gan, nên các nhà nghiên cứu chỉ kiểm tra chức năng gan ở trẻ dưới 1 tuổi. Thực tế, gan của trẻ vẫn chưa phát triển hoàn thiện cho đến khoảng 3 tuổi.

Ở người lớn, acetaminophen được chuyển hóa tại gan thông qua ba con đường: glucuronid hóa, sulfat hóa và oxy hóa. Ở trẻ sơ sinh, con đường glucuronid hóa hoạt động rất yếu và chưa hoàn thiện cho đến tuổi mẫu giáo khiến con đường sulfat hóa trở thành con đường chuyển hóa thuốc an toàn chủ yếu.

Tuy nhiên, nhiều trẻ sau này được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ lại có rối loạn chức năng sulfat hóa yếu, buộc cơ thể phải phụ thuộc vào con đường oxy hóa, từ đó làm tăng nguy cơ tích tụ độc tố. 

“Chúng tôi không cho mèo dùng acetaminophen vì chúng không có [con đường glucuronid hóa]. Vậy tại sao lại cho trẻ nhỏ dùng”,  ông Parker nói, lưu ý rằng acetaminophen được xem là độc hại đối với mèo do những hạn chế chuyển hóa tương tự.

Cơ thể thông thường sử dụng glutathione để loại bỏ các chất chuyển hóa độc hại, nhưng các nghiên cứu cho thấy trẻ mắc chứng tự kỷ thường có dự trữ glutathione thấp – có thể do bệnh lý nền hoặc sức khỏe của bà mẹ kém – dẫn đến việc các độc chất không được đào thải hiệu quả.

Khuyến nghị từ chuyên gia

Mặc dù acetaminophen gây ra những rủi ro sức khỏe và tạo gánh nặng cho hệ thống chống stress oxy hóa của cơ thể, những loại thuốc này vẫn có một chất giúp giải độc.

N-acetylcysteine, còn được gọi là NAC, là một chất chống oxy hóa được dùng để điều trị ngộ độc acetaminophen và ngăn ngừa tổn thương gan. NAC giúp tổng hợp glutathione, chất cần thiết để loại bỏ các chất chuyển hóa độc hại khỏi cơ thể.

Tuy nhiên, hiệu quả của NAC trong việc phòng ngừa các tác hại liên quan đến acetaminophen ở trẻ em vẫn chưa được kiểm chứng.

Đối với phụ nữ mang thai, acetaminophen là loại thuốc uy nhất được phép dùng để giảm đau và hạ sốt, dù không được khuyến cáo hoàn toàn. Sốt cao cũng gây nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng cho cả bà mẹ và thai nhi, bao gồm dị tật ống thần kinh và sinh non.

Tiến sĩ Baccarelli cho biết, ông và các đồng nghiệp đề xuất một cách tiếp cận cân bằng dựa trên nguyên tắc thận trọng.

“Phụ nữ mang thai cần giảm đau hoặc hạ sốt nên dùng acetaminophen liều thấp nhất có hiệu quả, trong thời gian ngắn nhất có thể và chỉ sau khi đã tham khảo ý kiến ​​bác sĩ để đánh giá lợi ích – nguy cơ cụ thể cho từng trường hợp”, Tiến sĩ Baccarelli nói.

Khánh Nam (t/h)