Đọc vài bài thơ của Nguyễn Trung Ngạn
- Ninh Sơn
- •
Trong kho tàng văn học thời Trần, bên cạnh những tên tuổi lớn như Trần Hưng Đạo, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, còn có một bậc danh thần kiêm văn sĩ nổi bật: Nguyễn Trung Ngạn. Ông để lại dấu ấn không chỉ trong việc làm quan và tài ngoại giao mà còn qua những vần thơ giản dị, thể hiện tâm hồn kẻ sĩ Đại Việt.
Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370), quê ở Ân Thi, Hưng Yên, là người đỗ Hoàng giáp khi mới 16 tuổi. Suốt cuộc đời làm quan, ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng, đi sứ sang nhà Nguyên, nổi tiếng thanh liêm, cương trực. Bên cạnh đó, Nguyễn Trung Ngạn còn để lại một số thơ văn bằng chữ Hán, hiện còn ghi chép trong Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Giới Hiên thi tập.
1. Nỗi niềm nhớ quê trong “Quy hứng” (歸興)
Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc bất như quy.
Dịch nghĩa:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo.
Nghe nói ở nhà, dẫu nghèo vẫn tốt,
Đất Giang Nam tuy vui cũng chẳng bằng về nhà.
“Quy hứng” là tiếng lòng của người sứ thần xa xứ, đối diện cảnh phồn hoa Giang Nam mà lòng vẫn nhớ về nơi chôn rau cắt rốn. Cảnh sinh hoạt bình dị – tằm chín, lúa trổ, cua đồng béo – trở thành hình ảnh gợi nhớ tới quê hương. Bài thơ cho thấy rõ tình yêu quê hương giản dị mà sâu nặng.
2. Cảnh thiên nhiên hùng vĩ trong “Động Đình hồ” (洞庭湖)
Vân đào tuyết lãng tứ man man,
Chỉ trụ trung lưu ngật nhất sơn.
Hạc tích bất lai tùng tuế lão,
Phi hồn do tại trúc ngân ban.
Càn khôn noãn phá hồng mông hậu,
Nhật nguyệt bình phù hạo diểu gian.
Ngạn chỉ đinh lan vô hạn hứng,
Phiến tâm không tiện bạch âu nhàn.
Dịch nghĩa:
Bốn bề mênh mông, sóng như mây như tuyết,
Đột ngột một hòn núi nhô cao như cột đá giữa dòng.
Vết chân hạc không đến, chỉ có cây tùng già,
Hồn Tương phi hãy còn ngấn lệ ở thân trúc.
Trời đất như quả trứng vỡ ra sau thời hồng hoang,
Mặt trời mặt trăng như bèo nổi ở giữa khoảng bát ngát.
Cỏ chỉ cỏ lan trên bờ, hứng thú vô hạn,
Tấm lòng chỉ hâm mộ được nhàn như chim âu trắng.
Đây là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trung Ngạn khi đi sứ. Cảnh hồ Động Đình hùng vĩ được tái hiện bằng bút pháp rộng lớn, vừa mang vẻ đẹp thiên nhiên, vừa gợi ý nghĩa triết lý về vũ trụ. Trong cảnh mênh mông ấy, tác giả vẫn gửi gắm tấm lòng mình: mong muốn được an nhiên tự tại như một con chim bay trên trời cao.
3. Tấm lòng với quốc gia qua “Bắc sứ sơ độ Lô Giang” (北使初渡瀘江)
Thao trì sứ tiết xuất Kinh hoa,
Trú mã cô đình nhật vị tà.
Biệt tửu nhất bôi phân khách hứng,
Lô Giang đông bạnh tức thiên nha.
Dịch nghĩa:
Lạm cầm cờ tiết khỏi Kinh đô,
Dừng ngựa nơi đình vắng lúc mặt trời chưa xế.
Một chén rượu từ biệt chia hứng khách,
Phía Đông sông Lô là chân trời.
Bài thơ ghi lại bước chân đầu tiên của Nguyễn Trung Ngạn trên hành trình đi sứ. Tác giả nhắc đến “sứ tiết” – biểu tượng của triều đình – để khẳng định trọng trách nặng nề. Cảnh quán vắng, chén tiễn biệt nhuốm màu cô đơn, nhưng sau đó là hình ảnh dòng sông Lô mênh mông, gợi ý chí lớn và lòng trung nghĩa. Đây chính là tấm lòng của một trí thức, mang trọng trách trên thân.
*
Ba bài thơ phản ánh rõ đặc điểm chung trong thơ Nguyễn Trung Ngạn: giản dị mà chan chứa tình yêu quê hương, giàu rung cảm trước cảnh vật, và luôn gắn liền với trách nhiệm quốc gia. Thơ ông ít nhiều chịu ảnh hưởng phong vị Đường thi, nhưng mang phong vị của trí thức Việt. Dù số lượng không nhiều, Nguyễn Trung Ngạn đã góp phần làm phong phú diện mạo văn học đời Trần.
Ninh Sơn biên tập
Xem thêm:
Mời xem video:
