Cùng một vấn đề, từ các góc độ khác nhau, cách nhìn nhận cũng sẽ khác nhau. Trong mắt văn nhân, “mai, lan, trúc, cúc” mang vẻ thanh nhã, còn trong mắt bậc đế vương, điều nhìn thấy được ở trúc chính là sự chính trực kiên trì. Dưới đây là phong vận của trúc trong mắt bậc đế vương, một người là Hoàng đế khai quốc nhà Minh, một người là Hoàng đế thời thịnh trị của Đại Việt.

Truc 01
(Tranh: Tống Huy Tông, Public Domain)

Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương có một bài “Vịnh trúc” như sau:

Tuyết áp chi đầu đê,
Tuy đê bất trước nê.
Nhất triều hồng nhật xuất,
Y cựu dữ thiên tề.

Tạm dịch:

Tuyết đè ngọn cúi đầu,
Cúi nhưng chẳng chạm bùn.
Một mai Mặt Trời mọc,
Vẫn ngang tầm trời cao.

Trước thử thách khắc nghiệt của trận tuyết lớn là một thiên tai tự nhiên, cây trúc khác hẳn với những loài khác. So với những cây đại thụ vươn tới tận trời cao, trúc dù sao cũng mảnh mai hơn nhiều, nếu cố cứng rắn chống lại thì kết cục sẽ là gãy đổ. Tuyết lớn có thể ép cong thân trúc, nhưng trúc vẫn nỗ lực giữ được sự dẻo dai, không để thân chạm đất và bị đè gãy. Ở đây, “chạm bùn” mang ý nghĩa bị đè ngã, cũng tức là đứt gãy. Chu Nguyên Chương tay trắng dựng nghiệp, cuối cùng lên ngôi Hoàng đế, hẳn là đã trải qua vô số gian nan.

Mặt Trời vừa xuất hiện, tuyết tan ra, cây trúc sẽ lại khôi phục dáng đứng thẳng tắp của mình. Nhà thơ dành cho trúc một sự đánh giá rất cao. Kỳ thực, đây cũng chính là bản tính của nhà thơ, có vậy mới có thể có được thiên hạ và thành tựu nên sự nghiệp lớn lao.

Chu Nguyên Chương là một bậc khai quốc đế vương, dĩ nhiên là vô cùng xuất chúng. Thơ của ông cũng khác biệt so với người thường. Thoạt nhìn thì có vẻ đơn giản, nhưng khí tiết mà ông thể hiện ra lại là điều đáng quý.

Ở Đại Việt cũng có một bậc đế vương để lại bài thơ về trúc. Ông là Lê Thánh Tông, vị quân chủ tài năng xây dựng nên thời kỳ cực thịnh của triều Hậu Lê nói riêng và chế độ quân chủ Việt Nam nói chung với tên gọi Hồng Đức thịnh trị.

Lê Thánh Tông không chỉ là một nhà vua tài năng xây dựng nên thời kỳ cực thịnh của nền quân chủ Việt Nam mà còn là một người phong nhã yêu nghệ thuật thi ca, văn hoá nghệ thuật dưới triều đại của ông cũng phát triển rực rỡ.

Dưới đây là bài thơ Nôm “Cây trúc” của Lê Thánh Tông:

Kì Viên dưỡng dục nẻo sơ đông,
Dạn mặt đầu canh thuở gió rung.
Giá chẳng xâm, hay tiết cứng,
Trăng những tỏ, biết lòng không.
Đài Vương tử vắng, nhàn xoang phượng,
Chầm Cát Pha thanh dễ hóa rồng.
Thiên hạ tri âm, hay có mấy?
Mai thì ngự sử, đại phu tùng.

Trúc ở Kì Viên (một địa danh cổ) là giống cây quý, nổi tiếng thanh cao, kiên cường, dù gió rét đầu mùa rung động, trúc vẫn hiên ngang, không hề nao núng. Đó chính là biểu tượng cho sự cứng cỏi, bất khuất của con người có đạo đức, giữ lòng thanh khiết trước mọi thử thách. Trong ánh trăng sáng lại càng nhận ra rõ rệt tấm lòng thanh trong, không chút vẩn đục.

Vương Hi Chi trồng trúc quanh nhà để làm cảnh thanh nhã. Phi Trường Phòng có cây gậy trúc, gậy hóa rồng ở bãi Cát Pha. Trúc không chỉ đẹp về hình dáng mà còn gắn với ý nghĩa cao quý, phi phàm.

Từ đó, tác giả muốn hỏi: “Trong thiên hạ, tri âm thực sự hiểu được giá trị ấy, biết được lòng người thanh cao, thì có được bao nhiêu?”

Nếu người quân tử gặp minh quân, ắt có thể được trọng dụng. Giống như hoa mai hiên ngang, tựa vị quan ở chức ngự sử, tận lòng can gián, nên gọi là “mai ngự sử”. Tần Thủy Hoàng lên núi Thái Sơn làm lễ phong thiện, nhờ cây tùng mới tránh khỏi cơn mưa to gió lớn, nhân đấy phong cho cây chức “ngũ đại phu”.

Dựa theo “Phong vận của trúc trong mắt bậc đế vương
Đăng trên ChanhKien.org
Tác giả: Tiêm Tiêm

Xem thêm:

Mời xem video: