Hậu duệ Phạm Ngũ Lão nhiều đời chăm lo cho vùng đất Quảng Nam
- Trần Hưng
- •
Phạm Ngũ Lão là danh tướng nhà Trần, người Phù Ủng, huyện Mỹ Hào, thừa tuyên Hải Dương. Con trai thứ 5 của ông là Phạm Nhữ Dực chuyển đến sinh sống ở làng Đồng Tràm, lộ Thăng Hoa (Quảng Nam ngày nay). Từ đó họ Phạm nhiều đời đánh Chiêm, lập làng giúp dân chúng Quảng Nam an cư lạc nghiệp.
Bình Chiêm, giữ đất Quảng Nam
Pham Nhữ Dực làm quan thời nhà Trần và nhà Hồ. Năm 1402, ông cùng Đỗ Mân và Nguyễn Cảnh Chân tiến đánh Chiêm Thành, khiến Vua Chiêm phải dâng đất Chiêm Động (phía nam Quảng Nam) và Cổ Lũy (Quảng Ngãi) để cầu hòa. Nhà Hồ chia vùng đất mới này làm 4 Châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.
Năm 1407, quân Minh tiến đánh bắt được cả cha con Hồ Quý Ly, Chiêm Thành nhân cơ hội đó tiến đánh lấy lại các vùng đất trước đó. Con trai cả của Nhữ Dực là Phạm Đức Đề phải đến ẩn náu ở An Trường (phía bắc Quảng Nam ngày nay) thành một thế lực ở vùng này.
Khi Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh, con trai cả của Đức Đề là Phạm Nhữ Dự đem quân từ An Trường đến giúp, sau được phong Cao Thọ Tập Phước hầu, được lưu trấn quản lãnh phủ Thăng Hoa.
Chiêm Thành tiến đánh Đại Việt
Năm 1422, vợ chồng Phạm Nhữ Dự sinh được người con trai trưởng, đặt tên là Phạm Nhữ Tăng. Khoa thi năm 1445 thời Lê Nhân Tông, ông tham dự và đỗ Đệ nhị Điện Hoằng Từ khoa được phong làm Thái Bảo kiêm Tri quân Dân chính sự vụ, đến năm 1467 được ban sắc Phụ chánh Tham tướng phủ, Quảng Dương hầu Bình Chương quân quốc trọng sự.
Năm 1460, Phạm Nhữ Tăng theo các tướng như Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Niệm dẹp loạn đảng, phế Lê Nghi Dân và đưa vua Lê Thánh Tông lên ngôi.
Năm 1460, vua Chiêm là Trà Duyệt mất, em là Trà Toàn lên ngôi. Đại Việt sử ký toàn thư của Đại Việt mô tả Trà Toàn là “hung bạo làm càn, dối thần ngược dân, ngạo mạn kiêu căng”. Trà Toàn lăng nhục sứ thần Đại Việt do vua Lê gửi đến, cho quân gây hấn biên giới với Đại Việt rồi sai người tâu với vua nhà Minh rằng Đại Việt xâm lấn và cầu viện binh giúp đỡ.
Tháng 8 âm lịch năm 1470, Trà Toàn cho 10 vạn quân tiến đánh Đại Việt, sự kiện này Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép như sau:
“Tháng 8, quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn thân hành đem hơn 10 vạn quân thuỷ bộ cùng voi ngựa đánh úp châu Hoá. Tướng trấn giữ biên thuỳ ở châu Hoá là bọn Phạm Văn Hiển đánh không nổi, phải dồn cả dân vào thành, rồi cho chạy thư cáo cấp”
Theo Vua tiến đánh Chiêm Thành
Nhận được tin báo, vua Lê Thánh Tông cấp tốc chuẩn bị 26 vạn quân tiến đánh Chiêm Thành. Ngày 6 tháng 11 âm lịch, Vua cho hơn 10 vạn quân xuất phát trước. Đến ngày 16, nhà Vua cùng hơn 15 vạn quân còn lại lên đường đánh Chiêm.
Phạm Nhữ Tăng được sắc phong làm Trung quân Đô thống lãnh ấn Tiên phong thượng, đại kỳ thêu bốn chữ “Bình Chiêm hưng quốc”.
Tháng 12 âm lịch quân Đại Việt đến miền biển nước Chiêm, vua Lê Thánh Tông cùng các tướng nghiên cứu bản đồ, cho quân sĩ tập thủy chiến.
Đến tháng 2/1471 hai bên giao chiến với nhau, Phạm Nhữ Tăng chỉ huy quân bao vây quân Chiêm ở Chiêm Động và Cổ Lũy, quân Chiêm đại bại phải bỏ chạy. Thừa thắng, Nhữ Tăng cùng các cánh quân khác tiến đến vây chặt Kinh thành Chà Bàn làm nhiều vòng.
Vua Chiêm là Trà Toàn nhiều lần dâng lễ vật xin hàng, nhưng vua Lê Thánh Tông không chịu, quyết vây thành bắt bằng được Trà Toàn.
Quân Đại Việt đóng thang để vượt tường thành, đồng thời cũng phá được cửa đông và tiến vào thành. 4 vạn quân Chiêm bị tiêu diệt, 3 vạn quân cùng vua Trà Toàn bị bắt.
Tướng Chiêm Thành là Bô Trì Trì chạy đến Phan Lung, tự xưng Chúa, chiếm giữ 1/5 đất Chiêm, rồi cho người mang lễ vật cống nạp và xin được thần phục Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông đồng ý phong Bô Trì Trì làm Vương vùng đất thuộc Phan Rang, Thuận Hải ngày nay.
Lãnh thổ phía bắc của Chiêm Thành từ đèo Hải Vân – Đà Nẵng đến đèo Cù Mông – Phú Yên (gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay) được sáp nhập vào Đại Việt.
Giúp dân an cư lạc nghiệp
Trên vùng đất mới, Vua cho thành lập Thừa tuyên Quảng Nam kéo dài từ đèo Hải Vân vào đến núi Thạch Bi, Đô Thống phủ của Thừa tuyên Quảng Nam đặt tại thành Chà Bàn.
Vua giao cho Phạm Nhữ Tăng trấn giữ Kinh thành Chà Bàn. Giữ an ninh và giúp dân Việt di cư đến đây, khai hoang mở đất.
Phạm Nhữ Tăng tập trung phát triển Quảng Nam, ông cùng dân chúng lập Ngũ Hương gồm 5 làng: Hương Quế, Hương Lộc, Hương An, Hương Yên và Hương Lư (nay thuộc xã Quế Phú và Hương An, huyện Quế Sơn, Quảng Nam).
Tưởng nhớ
Năm 1478, Phạm Nhữ Tăng bị bệnh nặng, Vua hay tin liền đưa thái y đến chăm lo thuốc thang nhưng ông không qua khỏi. Vua thương tiếc hạ chiếu rằng:
“Khanh là người có công mở mang bờ cõi, phục vụ ba triều, đã vì triều đình coi trọng, vì đất nước an nguy, song khanh số sống đã tận, sức cùng không chữa được, thọ bệnh mà chết. Ta đây lòng không yên. Khanh khi sống vì nghĩa mà vô tư, vì nước mà ra sức. Ta đối với khanh rất nặng tình, sáu năm yêu nước mến vua, nếm mật nằm gai, con cháu ngày sau thừa hưởng”.
Vua cũng ngự bút một tấm trướng rằng:
Nghĩa sĩ uẩn mưu cơ, hiệp lực, nhất tâm bình Chiêm quốc.
Miếu đài khai tráng lệ, hương hồn thiên cổ, hiển Nam bang
Dịch nghĩa:
Nghĩa sĩ lắm mưu cơ, góp sức một lòng bình Chiêm quốc.
Miếu đài thêm rạng rỡ, hương hồn ngàn thuở rạng trời Nam.
Mộ của ông được lập ở làng làng Hương Ly (nay là làng Hương Quế, xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, Quảng Nam). Vua ban sắc gia phong Hoằng túc trợ võ Đặc tấn, Phụ quốc Quảng Dương hầu, Phạm Quý công đại phu. Cho xây lăng mộ và cấp tự điền để dân làng lo phụng tự.
Hậu duệ của Phạm Ngũ Lão từ Phạm Nhữ Dực đến Phạm Nhữ Tăng mấy đời cai quản chăm lo cho vùng đất thuộc Quảng Nam ngày nay. Dân chúng biết ơn gọi Phạm Nhữ Dực là “Thượng Tướng Bình Chiêm” và Phạm Nhữ Tăng là “Tiền hiền làng Hương Quế”.
Trẩn Hưng
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ khóa lịch sử Việt Nam nhà Lê Phạm Ngũ Lão































