Họ Nguyễn làng Vân Điềm
- Trần Hưng
- •
Dòng họ Nguyễn làng Vân Điềm (xã Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội) là dòng họ khoa bảng, nổi danh với việc có hai cha con làm quan Tể tướng, nhiều người đỗ đại khoa. Dưới đây là câu chuyện thú vị về dòng họ này.
Sau khi Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, nhà Lý mất, nhà Trần lên thay. Hậu duệ nhà Lý phải đi xa hoặc đổi họ. Hậu duệ của Nghĩa Nam vương Lý Hưng Tích (con thứ 3 của vua Lý Thánh Tông) phải đổi sang họ Nguyễn, đến Làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội) sinh sống, từ đó khai sinh ra dòng họ Nguyễn ở đây.
Nghèo khó vẫn giúp người
Sách “Đăng khoa lục sưu giảng” của vị quan Thượng thư thời Lê Trung Hưng là Trần Tiến có ghi chép lại câu chuyện về một cụ tổ họ Nguyễn làng Vân Điềm (không ghi rõ tên). Ông dù biết chữ nhưng nhà nghèo nên làm nghề dạy học. Gặp năm mất mùa đói kém, ông quyết định đi xa đến Hưng Hóa dạy học, bởi nơi đây ít người biết chữ lại ít thầy. Ông cùng vài người đến đây làm các việc khác nhau, cứ đầu năm đi cuối năm lại về nhà mang theo vài hốt bạc kiếm được, giúp nhà trả nợ và mua sắm đón tết. Cuộc sống gia đình đều chỉ dựa vào món tiền này mà thôi.
Năm nọ gần đến tết thì ông cùng vài người bạn lại từ Hưng Hóa mang theo số tiền về nhà đón tết. Năm đó ông kiếm được số tiền rất ít, chỉ có một hốt bạc, thấp nhất trong số nhóm người cùng đi làm. Trên đường về mọi người ghé một hàng quán ăn uống, một mình ông đi trước.
Đi đến quán nước bên đường, ông ngồi nghỉ chờ mọi người cùng đến, thấy có một người trong quán có vẻ mặt uất giận, cứ nói mãi rằng: “Ta ăn uống xong, ta sẽ đến nhà mày tự tử, để gieo vạ cho mày”. Ông liền hỏi thì người đó vừa khóc vừa nói: “Tôi có vay nợ nhà giầu kia đã trả tiền lời rồi, còn tiền gốc không trả được, chủ nợ giam giữ mẹ tôi. Nay hết năm rồi, ai cũng vui mừng năm mới, mà tình cảnh tôi như thế, tôi còn sống làm gì nữa. Tôi định ăn uống no say, rồi đến nhà nó tự tử gieo án mạng cho nó”.
Ông liền cố khuyên giải, nói anh ta còn có mẹ già, nếu chết thì mẹ biết dựa vào ai, vậy nên cố xin khất nợ lại một thời gian. Người này nó rằng: “Ông nói rất phải, nhưng chủ nợ quá nghiệt, tôi đã nhiều lần van xin, mà họ không thương. Ngày nay, nhà nghèo không vay mượn được tiền lấy gì trả nợ, mà mang mẹ về được. Như thế thà chết đi cho xong!” Nói xong người đó lại khóc.
Ông hỏi người ấy còn nợ bao nhiêu, anh ta đáp còn nợ 30 quan tiền. Quá thương cảm, ông đưa hốt bạc duy nhất của mình cho anh ta, người này lạy tạ cảm ơn rồi mang bạc về. Người đi rồi, chỉ còn một mình ngồi lại, nghĩ đến cảnh về đến nhà không có đồng bạc nào thì nhà mình lấy gì trả nợ và đón tết, ông cứ ngồi ngây người ra.
Những người bạn đi sau cùng đến, thấy ông ngây người ra thì hỏi chuyện, khi biết ai cũng thương cảm cho ông. Ông dặn rằng đừng nói cho vợ biết chuyện.
Về đến nhà ông nói với vợ rằng: “Năm nay ốm đau luôn, có đồng nào uống thuốc hết cả” người vợ nghe thấy thì không trách gì mà an ủi nói: “Trước mấy ngày, tôi có đi làm mướn, được công một đấu gạo, sáng ngày thổi ăn rồi, còn ít cơm nguội thôi”. Rồi gia đình ông ăn cơm vui vẻ với chỉ ít rau luộc còn lại.
Đêm ấy vợ ông nằm mộng thấy một vị Thần cầm một vòng tròn như cái đai đưa cho vợ ông, và bảo là đai ngọc để cho con cháu dùng. Tỉnh dậy nói với ông. Ông biết là điềm tốt, nhưng chưa giải được ra sao.
Tết năm ấy những người bạn cùng đi đều có tiền cùng gia đình vui vẻ sắm đồ tết, còn nhà ông năm ấy chẳng mua gì, các chủ nợ cũng thương tình mà không đòi ngay. Ba ngày tết nhà ông không có gì ăn, cũng chẳng có ai thuê làm, nên phải sang chúc tết hàng xóm rồi ăn nhờ luôn bên ấy.
Được tặng đất tốt
Sau tết vợ ông đi làm mướn, ông thấy từ chỗ mình đến chỗ người cho bạc cũng không xa, không biết người đó thế nào rồi nên quyết định đến chỗ anh ta một chuyến. Trên đường đi ông gặp một người biết xem phong thủy nói rằng: “Tôi coi ông hiền lành nho nhã, ở đằng kia có một ngôi đất phát Tiến Sĩ (ông Nghè) nếu ông xin được, tôi táng giùm cho”, còn nói rằng hình đất ấy như cái đai áo, ông thấy đúng như vợ mình nằm mộng được cho cái đai.
Ông liền tìm người hỏi nhà của người chủ đất, thì được biết các thầy phong thủy đều biết đó là đất quý kiểu ngọc đới (đai áo), ai táng được thì phát phúc lớn, người chủ đất đã định táng mộ tổ nhà mình vào nhưng Thần nhân báo mộng không cho, nhiều người hỏi mua nhưng không bán. Năm ngoái có nhà giàu cho chủ đất này vay tiền, rồi anh ta không trả được, nhà giàu liền ép bán đất trả nợ nhưng lại nhất quyết không bán, gã nhà giàu lập mưu giữ luôn mẹ của anh ta lại, nhưng may anh ta được người cho bạc nên mới cứu được mẹ và trả được số nợ.
Ông tìm được nhà chủ ngôi đất thì thấy đó chính là nhà người mà mình đã cho hốt bạc, hai mẹ con anh ta gặp ông thì đều mừng rỡ. Khi biết chuyện anh ta nói rằng: “Đất này nhiều Thầy nói là đất quý, mà nhiều người đến xin, tôi không cho. Năm ngoái người nhà giàu giữ mẹ tôi, cũng vì thèm ngôi đất này, nó giàu nhưng nó bất nhân, nên mấy tôi cũng không cho. Nhờ ông, mà tôi trả xong nợ đem mẹ tôi về, và chưa kịp đền ơn. Nay ông hỏi đến ngôi đất, có lẽ lòng trời đưa lại, chứ người khác mấy tôi cũng không cho. Vậy trong thửa đất này ông muốn táng chỗ nào cũng được, tôi đâu dám tiếc”.
Ông chọn ngày lành tháng tốt thì táng mộ tổ vào. Sau đó con ông là Nguyễn Bảo học rất giỏi, được quan Thượng thư của nhà Mạc là Đàm Cư gả luôn con gái cho. Thế nhưng mỗi khi Triều đình có khoa thi Nguyễn Bảo lại từ chối tham dự vì thấy nhà Mạc đã đã suy tàn nên không muốn làm quan.
Nguyễn Thực đỗ đầu, làm quan đến Tể tướng
Đến năm 1593, nhà Lê Trung Hưng đánh bại nhà Mạc và chiếm được Thăng Long. Năm 1595 tổ chức khoa thi, bấy giờ Nguyễn Bảo mới đồng ý dự thi khi đã 40 tuổi.
Khoa thi này Nguyễn Bảo làm bài xuất sắc đỗ đầu tức Đình nguyên, được vua Lê ngự bút đổi tên thành Nguyễn Thực.
Trong suốt cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Thực trải qua nhiều chức vụ khác nhau, trong đó có cả chức quan đầu Triều là Tham tụng (tức Tể tướng). Ở vị trí nào ông cũng làm tròn chức trách của mình.
Dù có quyền cao chức trọng nhưng Nguyễn Thực vẫn giữ đạo làm quan của một nhà Nho chính thống. Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” đánh giá rằng: “Ông là người thuần hậu, trong sạch, cẩn thận, không thu vén cho riêng mình. Làm quan đạt đến tột độ vinh hiển mà vẫn sống thanh bạch, tiết tháo, phong độ sánh với các danh thần thời xưa”.
Sau khi nghỉ hưu, mừng thọ 80 tuổi, Triều đình tặng ông hàm Thái phó. Năm 1637, ông mất, thọ 83 tuổi, được truy tặng làm Thái tể, thụy là Trung Thuần.
Tể tướng Nguyễn Nghi
Con của Nguyễn Thực là Nguyễn Nghi đỗ tiến sĩ năm 32 tuổi, làm quan đến Lại bộ Thượng thư, ông làm quan cùng Triều với cha.
Năm 1653, ông được gia phong làm Thiếu phó tước Dương Quận công, được vào Phủ chúa giữ chức Tham tụng (tương đương Tể tướng đầu triều). Sau khi nghỉ hưu ông được phong là Thái phó.
Sử gia Phan Huy Chú nhận xét về ông là: “Tính ông thuần cẩn, chuộng kiệm ước, không lập sản nghiệp. Đức nghiệp danh vọng của ông lúc đó ai cũng ngưỡng mộ”.
Con cháu của Nguyễn Thực sau này còn có nhiều người đỗ đại khoa, dân gian cho rằng đó là do phúc đức của tổ tiên để lại.
Trần Hưng
Xem thêm:
- Vị quan cương trực thẳng thắn trừng trị cả con của Chúa
- Vì sao họ Trần 3 đời theo nhà Mạc vẫn được nhà Lê trọng dụng?
Mời xem video:
Từ khóa dòng họ khoa bảng phong thủy Phúc đức



















![[VIDEO] Chúng ta thường nói “Đạo đức”, vậy thế nào là “Đạo” và “Đức”?](https://trithucvn2.net/wp-content/uploads/2025/12/dao-va-duc-446x295.png)











