Hoài Thượng (thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) là vùng đất văn hiến, “trai thì theo nghề học, gái thì giỏi nghề canh cửi, dệt vải”. Xưa kia nơi đây được xem là đất học bởi rất nhiều người đỗ đạt.

Vùng đất khoa bảng

Hoài Thượng có 9 thôn, nhưng những người đỗ đạt tập trung ở thôn Đại Mão. Dân gian truyền rằng nơi đây phong thủy nằm trên thế tay ngai, hình võng bên bờ sông Đuống.

Người đỗ khai khoa cho Hoài Thượng và cả huyện Thuận Thành là Nguyễn Đình Khuê, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm 1568 thời vua Mạc Mậu Hợp, làm quan đến Hiến sát sứ Hải Dương.

Họ Lê Doãn ở Hoài Thượng nổi tiếng nhiều người đỗ đạt. Theo gia phả dòng họ thì cụ thủy tổ đến thôn Đại Mão vào thời vua Lê Uy Mục. Từ đó dòng họ có 11 người đỗ đạt làm quan. Trong đó đáng chú ý Lê Doãn Giản đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm 1743 đời vua Lê Hiển Tông, giữ chức Công bộ Hữu thị lang, Hoành Sơn Nam Thừa chính sứ. Em của Lê Doãn Giản là Lê Doãn Thân đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm 1748 thời vua Lê Hiển Tông, giữ chức Khâm sai, Lạng Sơn trấn đốc trấn, phong tặng Công bộ Hữu thị lang.

le doan than
Nhà thờ Tiến sĩ Lê Doãn Thân làng Đại Mão, xã Hoài Thượng. (Ảnh: Báo Giáo dục & Thời đại)

Thời nhà Nguyễn, Hoài Thượng nổi tiếng có Đỗ Dư học rộng tài cao, là hậu duệ của Trạng nguyễn Nguyễn Quang Bật, đỗ cử nhân khoa thi năm 1819, làm Tri phủ Quốc Oai. Năm 1826, ông bị Triều đình cách chức, về quê nhà dạy học, nhiều học trò của ông thành danh trong đó có cả con trai là Đỗ Trọng Vỹ.

Đỗ Trọng Vỹ đỗ được cha dạy dỗ nên học giỏi, thi đỗ cử nhân, được triều đình bổ ngay chức Huấn đạo Văn Giang, sau đó giữ chức Tri phủ Yên Thế. Sau đó Triều đình sung cho ông chức Bang tá quân vụ để trấn áp các đạo quân Cờ Vàng, Cờ Đen từ nhà Thanh kéo sang.

Lúc này có võ quan nhà Thanh là Lý Dương Tài bị cách chức, cho quân làm loạn, tràn sang Đại Việt cướp bóc. Đỗ Trọng Vỹ lập được công lớn khi cho quân đánh bại và bắt được Lý Dương Tài rồi áp giải sang nhà Thanh. Triều đình thăng cho ông làm Tuần phủ Hưng Yên. Tuy nhiên thời gian này ông tuổi cao bị bệnh nên xin được về quê nhà, Triều đình cho ông làm quyền Đốc học Bắc Ninh vào năm 1882.

Lứa học trò của Đỗ Trọng Vỹ có Nguyễn Đình Tuân đỗ đầu tức Đình nguyên, ngoài ra còn có rất nhiều người đỗ tiến sĩ, phó bảng.

Năm 1889, ông chủ trì việc khắc 12 tấm bia đá gọi là “Kim bảng lưu phương”, ghi danh gần 677 vị đỗ đại khoa của xứ Kinh Bắc.

Lúc này Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng từ thời Lê Sơ đã xuống cấp trầm trọng, năm 1893 ông chủ trương dời Văn Miếu từ núi Thị Cầu về núi Phúc Đức. Ông vận động các văn thân chức sắc cùng người dân địa phương góp sức để xây dựng được Văn Miếu ở nơi mới.

Đình Hoài Thượng

dinh hoai thuong
Cổng vào đình Hoài Thượng. (Ảnh: www.bacninh.gov.vn)

Đình Hoài Thượng vốn được khởi dựng lâu đời để tôn thờ Thành Hoàng làng là Tam vị Đông Quân, đây là 3 anh em tham gia đội quân Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Nam Hán mang lại độc lập cho dân tộc.

Đến cuối thế kỷ 17 do ngôi Đình xuống cấp, Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo đã bỏ tiền để tu sửa lại. Đến thời nhà Nguyễn ngôi đình được tu sửa thêm một lần nữa. Sau này đình thờ thêm Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo vì có nhiều ân nghĩa, được tôn làm Phúc Thần và thờ ở trong đình.

Đình được xây dựng ở nơi đất rộng, xung quanh đều có núi, phía nam là núi Long Khám, phía Đông là núi Vân Khám, phía Tây là núi Chè, phía bắc là núi Hồng Vân.

Đình quay mặt về hướng nam, xưa kia khi còn dòng sông Tiêu Tương tạo thành thế minh đường cho ngôi đình, phía sau có núi cao tạo thành hậu chẩm, núi chạy sang hai bên đình tạo thành thế tả thanh long, hữu bạch hổ. Phía chiếc ngôi đình là gò đất thiêng hình nghiên bút, khẳng định nơi đây là đất khoa bảng.

Đình Hoài Thượng rất to lớn bao gồm nhiều kiến trúc như: đình Thượng, đình Trung, đình Hạ, Tả vu, Hữu vu, Tam môn. Trong đó 3 tòa kiến trúc chính là đình Thượng, đình Trung và đình Hạ tạo thành hình “chữ tam”. Khung được làm bằng gỗ lim chắc chắn được chạm khắc tinh xảo.

Trong cuộc chiến với Pháp, đình Hoài Thượng đã bị dỡ bỏ bớt chỉ còn lại đền Thượng. Đến năm 1992, người dân Hoài Thượng phục hồi lại tòa đình Trung. Sau này có thêm vài lần tu sửa nữa, ngôi đình ngày nay bao gồm đình Thượng, đình Trung, cổng Tam môn, có sân rộng để tụ họp và cả hàng rào bao quanh, diện tích ngôi đình rộng đến 1.400 m2.

Hiện nay trong đình vẫn lưu giữ 8 đạo sắc phong thời nhà Nguyễn, trong đó có 3 đạo phong cho Tam vị Đông Quân, 5 đạo phong cho Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo.

Đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của dân chúng, hàng năm có 4 sự lệ quan trọng được tổ chức ở đình làng:

– Lễ hội ngày 12 tháng giêng là lễ hội truyền thống, đây là ngày sinh của Tam vị Đông Quân. Lễ hội tưởng nhớ chiến công của Tam vị Đông Quân trong cuộc chiến chống quân Hán thời Hai Bà Trưng. Các trò chơi dân gian được tổ chức như tổ tôm, đấu vật, chọi gà, bịt mắt đập niêu, kéo co, hát quan họ tạo một không khí vui tươi của làng quê.

– Ngày 12 tháng 2 là ngày giỗ của Tam vị Đông Quân.

– Ngày 28 tháng 2 là ngày giỗ của Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo, dân chúng tổ chức lễ bái tưởng nhớ công đức của Trạng nguyên với quê hương.

– Ngày 15 tháng 8 là ngày hội trung thu.

Năm 1994 đình Hoài Thượng được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: