Tản mạn về nguồn gốc tên gọi một số địa danh miền bắc (P2)
- Trần Hưng
- •
Đằng sau mỗi tên gọi là một câu chuyện lịch sử với ý nghĩa riêng biệt của vùng đất đó.
- Tiếp theo phần 1
Thái Nguyên
Khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi đã chia đất nước làm 24 lộ, Thái Nguyên là một châu thuộc Như Nguyệt giang lộ, tên gọi Thái Nguyên hình thành từ đây.
Thái Nguyên (太原) mang hàm nghĩa rộng lớn. Chữ “Thái” (太) nghĩa là to lớn, chữ “Thái” trong Thái Nguyên (太原) cũng chính là chữ Thái trong Thái cực (太極), màng hàm nghĩa rất to lớn. Chữ “Nguyên” (原) nghĩa là “gốc” ban đầu, là gốc sinh ra vạn vật.
Hà Giang
Nơi đây có nhiều sông suối nhỏ đổ vào sông lớn là sông Lô, như ở trung tâm thành phố có sông Miện đổ vào sông Lô. Chính vì thế mà nơi đây gọi là Hà Giang nghĩa là sông nhỏ đổ vào sông lớn. Hà Giang (河江) với Hà (河) là con sông nhỏ, Giang (江) là con sông lớn.
Nam Định
Năm 1822 dưới thời vua Minh Mạng, nhà Nguyễn đã đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành Nam Định, tên gọi Nam Định xuất hiện từ đây. Trong từ “Nam Định” thì “Nam” là chỉ vùng đất phía nam thành Thăng Long, giống như xia kia Hải Dương thường được gọi là “Xứ Đông” vì nằm ở phía đông thành Thăng Long. Chữ “Định” là bình định với ý nghĩa làm cho yên ổn.
Ninh Bình
Thời nhà Đinh, Tiền Lê thì Kinh đô Hoa Lư được đặt tại nơi đây. Thời nhà Tiền Lê nơi đây được gọi là châu Trường Yên.
Từ thời nhà Lý thì nơi đây đổi thành nhiều tên gọi khác nhau như châu Đại Hoàng Giang, lộ Trường Yên, trấn Thiên Quan, trấn Thanh Hoa ngoại, đạo Thanh Bình.
Năm 1822 thì tên gọi đạo Thanh Bình được đổi tên thành đạo Ninh Bình, tên gọi Ninh Bình xuất hiện từ đây. Năm 1829 thì đạo Ninh Bình đổi thành trấn Ninh Bình, năm 1831 thì thành tỉnh Ninh Bình.
Ninh Bình (宁平), với từ “Ninh” (宁) nghĩa là an toàn, vững chãi; “Bình” (平) nghĩa là bình yên.
Phú Thọ
Thời thuộc Pháp vào năm 1903, Toàn quyền Đông Dương ký nghị định thành lập thị xã Phú Thọ trên cơ sở làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện Sơn Vi.
Lúc này xã Phú Thọ nằm ở trung tâm tỉnh Hưng Hóa, lại có sân bay, đường sắt qua Trung Quốc nên giao thông thuận lợi, vì thế mà Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer quyết định chuyển trung tâm của tỉnh Hưng Hóa ở làng Trúc Phê huyện Tam Nông đến xã Phú Thọ, đồng thời đổi tên tỉnh Hưng Hóa thành tỉnh Phú Thọ.
Quảng Ninh
Thời nhà Nguyễn nơi đây được gọi là trấn Quảng Yên và phủ Hải Ninh. Sau đó hai địa danh này sáp nhập làm một gọi là Quảng Ninh.
Vĩnh Phúc
Tỉnh Vĩnh Phúc thành lập năm 1950, từ việc sáp nhập 2 tỉnh là Vĩnh Yên và Phúc Yên với nhau làm một.
Tuyên Quang
Tên gọi Tuyên Quang được ghi chép lại sớm nhất là trong cuốn “An Nam chí lược” của Lê Tắc viết năm 1335: “Quy Hóa giang tự Vân Nam, Tuyên Quang thủy tự Đặc Ma đạo, Đà giang thủy tự Chàng Long, nhân danh yên” (Nghĩa là: Nước sông Quy Hóa từ Vân Nam chảy về, nước sông Tuyên Quang từ đạo Đặc Ma chảy về, nước sông Đà từ Chàng Long chảy về, nhân có ngã ba sông mà đặt tên như vậy).
Như vậy tên gọi Tuyên Quang ban đầu là chỉ một dòng sông, nay con sông này là sông Lô. Sau đó nhà Trần đặt tên cho địa phương này theo tên con sông là lộ Tuyên Quang.
Thanh Hóa
Thời Bắc Thuộc Thanh Hóa thuộc Ái Châu. Đến thời vua Lý Thái Tông năm 1029 đã đổi tên Ái Châu thành phủ Thanh Hoá, tên gọi Thanh Hóa bắt đầu từ đây.
Năm 1466 vua Lê Thánh Tông chia cả nước làm 12 Đạo thừa tuyên, trong đó có Thừa tuyên Thanh Hóa. Đến năm 1469 thì Thanh Hóa được đổi tên thành Thanh Hoa.
Năm 1802 vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn lại đổi tên Thanh Hoa thành trấn Thanh Hóa.
Năm 1831 đổi tên trấn thành tỉnh, trấn Thanh Hóa lại đổi thành tỉnh Thanh Hoa. Đến năm 1843 lại đổi tên tỉnh Thanh Hoa thành Thanh Hóa, và tên gọi này kéo dài đến nay.
(Hết)
Trần Hưng
Xem thêm:
- Nguồn gốc tên gọi các địa danh ở Nam bộ (P2)
- Sài Gòn: Từ “Thị trấn trong rừng” đến thành phố vắng bóng cây xanh
Mời xem video:
Từ khóa địa danh miền bắc