Trong lịch sử khoa bảng, họ Ngô đời nào cũng có nhiều người đỗ đạt. Đến cuối thời nhà Nguyễn, do Triều đình chấp nhận sự bảo hộ của Pháp cho nên những người đỗ đạt không có cơ hội đóng góp nhiều cho Xã Tắc như các thời trước đó, tuy nhiên số người họ Ngô đỗ đạt cũng nhiều, trong đó có hai trường hợp nổi bật là Ngô Truân và Ngô Phúc Bình.

Làng Đại Mão, Kinh Bắc, Kẻ Vẽ: Làng khoa bảng nổi danh nhất Thăng Long
(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online)

Một trong “Ngũ phụng tề phi”

Quảng Nam vốn là vùng đất khai phá sau này, khoa bảng vốn không phát triển. Nhưng đến thời nhà Nguyễn thì Quảng Nam trở thành đất học của miền Trung, nối tiếng với “Ngũ phụng tề phi” khi có 5 người đỗ đại khoa tại khoa thi năm 1898 thời vua Thành Thái.

Họ Ngô đóng góp một người đỗ đạt là Ngô Truân. Bốn vị còn lại trong “Ngũ phụng” là Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn, Dương Hiễn Tiến.

Cha mẹ của Ngô Truân vốn người ở Mông Lãnh, Quế Sơn, Quang Nam. Gia đình ông rất nghèo khó, chuyển đến làng Cẩm Sa, Tiên Phước, Quảng Nam sinh sống. Năm 1873 thì Ngô Truân chào đời. Vì là dân nhập cư nên gia đình bị phân biệt đối xử, đã nghèo lại thêm khó.

Chẳng may cha Ngô Truân mất sớm, cậu bé may mắn có cụ Phạm Như Xương cưu mang. Cụ Phạm Như Xương thi đỗ Hoàng giáp, là một trong những nhà khoa bảng xuất sắc nhất Quảng Nam và uy tín nhất trong vùng. Bởi vậy Ngô Truân không chỉ được nuôi nấng mà còn được học chữ Thánh Hiền. Dù thế các hào cường trong làng vẫn ghen ghét Ngô Truân, phân biệt đối với dân nhập cư.

Mặc dù bị phân biệt đối xử, Ngô Truân vẫn nỗ lực siêng năng học hành. Năm 1894 Triều đình mở khoa thi, Ngô Truân tham dự và đỗ cử nhân.

Đến khoa thi năm 1898, Ngô Truân đỗ Phó bảng vinh quy bái tổ về làng. Các hào lý của làng phải theo lệ đón sĩ tử vinh quy mà không thể làm khác được dù rất ghen ghét, vì thế mà đã dùng trống thủng chiêng bể để đón ông. Trong khi đó những sĩ tử khác ở Quảng Nam đỗ đạt vinh quy đều được tổ chức rất lớn, vì đây là khoa thi có nhiều người đỗ đạt nhất vùng đất này.

Phạm Phú Hưu là cháu của Phạm Phú Thứ thuật lại cuộc đón tiếp này và được nhà nghiên cứu Trương Duy Hy ghi chép lại và gọi là “những con phụng yêu dấu của quê hương ngày ấy”:

“Dọc hai bên đường từ đỉnh đèo Hải Vân đến Vĩnh Điện, hương lý sức dân quét dọn sạch sẽ. Mỗi làng đặt một bàn hương án bên vệ đường. Vị chức sắc cao nhất trong làng , trang phục chỉnh tề, áo rộng khăn đóng, cùng thân hào nhân sĩ trong làng chuẩn bị để nghinh đón.

Các vị tân khoa đi ngựa ngay sau 4 chữ Ân Tứ Vinh Quy của vua ban. Mỗi lần đi qua nơi có đặt hương án thì xuống ngựa đón nhận sự vái chào và chào trả lễ với hương chức sở tại. Xong được mời ăn một miếng trầu, hút một điếu thuốc uống một chén rượu mừng. Đôi bên bày tỏ niềm hân hoan về kết quả khoa thi rồi lại lên ngựa từ từ tiến về Vĩnh Điện.”

Tiệc lớn được tổ chức ở “Khán hoa đình” chúc mừng 5 vị tân khoa của xứ Quảng, thế nhưng chỉ có 4 vị tham dự, người không có mặt là Ngô Truân. Ông bị làng mình phân biệt đối xử khi vinh quy trở về, lại gặp cảnh đón tiếp quá long trọng, ông Hy viết lại rằng:

“Lúc lên bờ phía Vĩnh Điện, một trong năm con phụng, cụ Ngô Truân – nguyên nhà rất nghèo, ngụ cư tại Cẩm Sa. Cụ xúc động mạnh trước cuộc đón rước quá long trọng của nhân dân trong tỉnh dành cho cụ và các bạn đồng khoa mà cụ không sao dám mơ tưởng đến. Lúc lên bờ, không hiểu sao cụ rời đám rước, một mạch chạy bộ về Cẩm Sa.”

Ngô Phúc Bình

Ngô Phúc Bình là thế hệ thứ 34 họ Ngô làng Trảo Nha, ông là con trai Cử nhân Tri huỵện Thọ Chân Ngô Đức Hồng, cháu nội Diễn Phái bá Ngô Đức Diễn.

Ngô Phúc Bình sinh năm 1820 người làng Trảo Nha huyện Thạch Hà (nay thuộc thị trấn Can Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Thuở nhỏ Phúc Bình có tiếng trong vùng là học giỏi, nhưng đi thi Hương mấy lần liền đều không đỗ, nên ở nhà dạy học cho đám trẻ.

Năm 1865 thời vua Tự Đức, Triều đình mở khoa thi Ân khoa Nhã sỹ. Đây là “ân khoa”, ai chưa đỗ kỳ thi Hương cũng được dự thi. Ngô Phúc Bình năm ấy đã ngoài tứ tuần, liền lấy tên là Ngô Phúc Tư rồi tham dự và thi đỗ, được vào dự kỳ thi cuối cùng là thi Đình.

Lúc này Triều đình phải nhượng bộ người Pháp 3 tỉnh miền Đông, nhưng quân Pháp chưa dừng lại, khắp nơi mất mùa đói kém. Triều đình cũng không thống nhất, đối với người Pháp thì chia thành 2 phe chủ chiến và chủ hòa. Vì thế mà đề thi Đình có hỏi với tình hình thế này thì nên hòa hay đánh.

Ngô Phúc Bình làm bài theo hướng giả hòa mà đánh, dung hòa được cả 2 phe trong Triều đình nên được chấm đỗ cao. Ông đỗ Đệ nhị giáp Đồng tiến sỹ xuất thân tức Hoàng giáp, khoa này chỉ lấy 5 người đỗ.

Khi thi xong diện kiến nhà Vua, vua Tự Đức thấy ông đã ngoài tứ tuần lại có tên là Tư, liền ra một vế đối: “Thập khẩu tâm tư, tư thân tư gia tư phụ mẫu”.

“Thập khẩu tâm tư” nghĩa là chữ thập (十) cùng chữ khẩu (口) và chữ tâm (心) thành chữ tư (思), chữ tư (思) nghĩa là nghĩ. “Tư thân tư gia tư phụ mẫu” nghĩa là nghĩ cho bản thân, gia đình, cha mẹ.

Ông đối lại rằng: “Thốn thân ngôn tạ, tạ thiên tạ địa tạ quân vương”.

“Thốn thân ngôn tạ” là chữ thốn (寸) hợp với chữ thân (身) và chữ ngôn (言) thành chữ tạ (謝). Chữ “tạ” nghĩa là tạ ơn. “Tạ thiên tạ địa tạ quân vương” nghĩa là tạ ơn trời đất, quân vương.

Vua Tự Đức liền phê vào quyển thi của ông 4 chữ: “Bác nhã lão thành”.

Thi đỗ ông được bổ nhiệm làm Tế tửu Quốc Tử Giám chăm lo giảng dạy suốt mấy năm liền, sau được cử làm Án sát tỉnh Quảng Bình.

Năm 1879, ông làm Phó chủ khảo trường thi hương Nam Định, sau kỳ thi về nhiệm sở ở Quảng Bình thì bị bệnh và mất.

Ông có 7 con trai và 4 con gái. Hậu duệ sau này có mấy chục người là Cử nhân, Kỹ sư, Bác sĩ, Tiến sĩ thành đạt.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: